Hà Nội: 19°C
Thừa Thiên Huế: 22°C
Hải Phòng: 22°C
Quảng Ninh: 19°C
TP Hồ Chí Minh: 27°C

Mức giá điện gió ngoài khơi từ hơn 3.000 đến gần 4.000 đồng/kWh

Khung giá phát điện loại hình nhà máy điện gió ngoài khơi mà Bộ Công Thương vừa phê duyệt tương đương với mức giá của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đề xuất trước đó.

Bộ Công Thương vừa phê duyệt khung giá phát điện năm 2025 áp dụng cho các nhà máy điện gió ngoài khơi. Cụ thể, mức giá tối đa đối với điện gió ngoài khơi tại Bắc Bộ là 3.975,1 đồng/kWh; Nam Trung Bộ là 3.078,9 đồng/kWh; còn Nam Bộ là 3.868,5 đồng/kWh.

Căn cứ khung giá phát điện trên, EVN và đơn vị phát điện ký kết hợp đồng mua bán điện trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật về phương pháp xác định giá dịch vụ phát điện do Bộ Công Thương ban hành.

Trước đó, EVN đề xuất mức giá dựa theo tính toán suất đầu tư để làm điện gió ở các khu vực là 93,565 triệu đồng cho 1kW (với tỉ giá ngoại tệ là 25.450 VND đổi 1 USD), tương đương 93 tỷ đồng cho 1MW. Tuy nhiên, hệ số công suất các khu vực có sự khác nhau như tại Bắc Bộ là 38,4%; tại Nam Trung Bộ là 49,6% và Nam Bộ là 39,5%.

Mức giá điện gió ngoài khơi từ hơn 3.000 đến gần 4.000 đồng/kWh
(Ảnh minh họa)

Theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII (được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025), về cơ cấu nguồn điện đến năm 2030: Tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu) là 183.291 - 236.363 MW, trong đó: Điện gió trên bờ và gần bờ 26.066 - 38.029 MW (chiếm tỷ lệ 14,2 - 16,1%); Điện gió ngoài khơi 6.000 - 17.032 MW đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi và giá thành phù hợp;

Điện mặt trời (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà, không bao gồm các nguồn điện mặt trời theo khoản 5 Điều 10 Luật Điện lực số 61/2024/QH15) 46.459 - 73.416 MW (chiếm tỷ lệ 25,3 - 31,1%);

Điện sinh khối 1.523 - 2.699 MW, điện sản xuất từ rác 1.441 - 2.137 MW, điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 45 MW; có thể phát triển quy mô lớn hơn nếu đủ nguồn nguyên liệu, hiệu quả sử dụng đất cao, có nhu cầu xử lý môi trường, hạ tầng lưới điện cho phép, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý;

Thủy điện 33.294 - 34.667 MW (chiếm tỷ lệ 14,7 - 18,2%), có thể phát triển cao hơn nếu bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, bảo vệ an ninh nguồn nước; Điện hạt nhân 4.000 - 6.400 MW đưa vào vận hành giai đoạn 2030 - 2035, có thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi;

Nguồn lưu trữ 10.000 - 16.300 MW (chiếm tỷ lệ 5,5 - 6,9 %); Nhiệt điện than 31.055 MW (chiếm tỷ lệ 13,1 - 16,9%); Nhiệt điện khí trong nước 10.861 - 14.930 MW (chiếm tỷ lệ 5,9 - 6,3%); Nhiệt điện LNG 22.524 MW (chiếm tỷ lệ 9,5 - 12,3%); Nguồn điện linh hoạt (nhiệt điện sử dụng nhiên liệu LNG, dầu, hydrogen... có độ linh hoạt vận hành cao) 2.000 - 3.000 MW (chiếm tỷ lệ 1,1 - 1,3%); Thủy điện tích năng 2.400 - 6.000 MW…

Định hướng năm 2050: Tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước (không bao gồm xuất khẩu) là 774.503 - 838.681 MW, trong đó: Điện gió trên bờ và gần bờ 84.696 - 91.400 MW (chiếm tỷ lệ 10,9%); Điện gió ngoài khơi 113.503 - 139.097 MW (chiếm tỷ lệ 14,7 - 16,6%); Điện mặt trời (gồm điện mặt trời tập trung và điện mặt trời mái nhà) 293.088 - 295.646 MW (35,3 - 37,8%);

Điện sinh khối 4.829 - 6.960 MW, điện sản xuất từ rác 1.784 -2.137 MW, điện địa nhiệt và năng lượng mới khác khoảng 464 MW; Điện hạt nhân 10.500 - 14.000 MW (chiếm tỷ lệ 1,4 - 1,7%); Thủy điện 40.624 MW (chiếm tỷ lệ 4,8 - 5,2%); Nguồn điện lưu trữ 95.983 - 96.120 MW (chiếm tỷ lệ 11,5 - 12,4%); Nhiệt điện than 0 MW (0%), không còn sử dụng than để phát điện;

Nhiệt điện sử dụng sinh khối/amoniac 25.798 MW (chiếm tỷ lệ 3,1 - 3,3%); Nhiệt điện khí trong nước và chuyển sử dụng LNG 7.900 MW (chiếm tỷ lệ 0,9- 1,0%); Nhiệt điện khí trong nước chuyển chạy hoàn toàn bằng hydrogen 7.030 MW (chiếm tỷ lệ 0,8 - 0,9%); Nhiệt điện khí LNG CCS (xây mới, lắp đặt thiết bị thu giữ và lưu trữ các- bon) 1.887 - 2.269 MW (chiếm tỷ lệ 0,2 - 0,3%); Nhiệt điện LNG đốt kèm hydrogen 18.200 - 26.123 MW (chiếm tỷ lệ 2,3 - 3,1%);

Nhiệt điện LNG chuyển chạy hoàn toàn bằng hydrogen 8.576 - 11.325 MW (chiếm tỷ lệ 1,1 - 1,4%); Nguồn điện linh hoạt 21.333 - 38.641 MW (chiếm tỷ lệ 2,8 - 4,6%); Thủy điện tích năng 20.691 - 21.327 MW.../.

Nguồn: Mức giá điện gió ngoài khơi từ hơn 3.000 đến gần 4.000 đồng/kWh

Vũ Minh
thiennhienmoitruong.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Khai mạc "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025"

Khai mạc "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc 2025"
Năm 2025, lần đầu tiên "Ngày hội Việt Nam hạnh phúc - Vietnam Happy Fest" được tổ chức dưới hình thức một chuỗi hoạt động trải dài liên tục qua đó có thể kể một câu chuyện trọn vẹn hơn về “hạnh phúc của người Việt” thông qua nhiều không gian, nhiều hoạt động trải nghiệm và tương tác khác nhau.

Na Uy nghiên cứu lộ trình loại bỏ năng lượng hóa thạch

Na Uy nghiên cứu lộ trình loại bỏ năng lượng hóa thạch
Để đổi lấy sự ủng hộ đối với dự thảo ngân sách 2026, Đảng Xanh của Na Uy đã đạt được thỏa thuận với chính phủ về việc lập một ủy ban nghiên cứu cách đưa nền kinh tế nước này thoát khỏi sự phụ thuộc vào dầu khí.

Áp thấp nhiệt đới giật cấp 8, chuẩn bị di chuyển vào Biển Đông

Áp thấp nhiệt đới giật cấp 8, chuẩn bị di chuyển vào Biển Đông
Dự báo ngày mai khi vào Biển Đông, áp thấp nhiệt đới sẽ chếch xuống nam do tương tác với không khí lạnh.

Không khí lạnh tiếp tục tăng cường, nền nhiệt độ của TP Hà Nội xuống mức rét hại

Không khí lạnh tiếp tục tăng cường, nền nhiệt độ của TP Hà Nội xuống mức rét hại
Dự báo đợt không khí lạnh mạnh sắp tràn về khiến TP Hà Nội vừa mưa vừa rét.

Fulham vs Crystal Palace: Derby London với nhiều ẩn số khó lường

Fulham vs Crystal Palace: Derby London với nhiều ẩn số khó lường
Trận đấu giữa Fulham và Crystal Palace diễn ra lúc 23h30 ngày 7/12 trong khuôn khổ vòng 15 Ngoại hạng Anh. Đây là màn so tài được đánh giá cân bằng khi cả hai đội đều sở hữu phong độ tương đối ổn định nhưng chưa cho thấy sự vượt trội rõ rệt. Lịch sử đối đầu thời gian gần đây cũng cho thấy tính giằng co đáng kể, đặc biệt là mỗi khi hai đội gặp nhau trên đất London.