5 tháng, ngành nông nghiệp xuất siêu 3,55 tỉ USD, giảm 21,1% so với cùng kỳ
Ngành nông nghiệp khẩn trương ứng phó hạn hán, xâm nhập mặn trước hiện tượng El Nino Nâng cao hiệu quả kinh tế từ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa |
Kim ngạch xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản trong 5 tháng đầu năm ước đạt 36,96 tỉ USD. Trong đó, xuất khẩu 20,26 tỉ USD, nhập khẩu 13,15 tỉ USD. Ngành nông nghiệp xuất siêu 3,55 tỉ USD, giảm 21,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn của Việt Nam đang dần tăng trưởng trở lại như Trung Quốc, Nhật Bản và khu vực châu Á.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nèn kinh tế thế giới vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, lạm phát cao tại một số quốc gia phát triển, các chính sách thắt chặt tiền tệ, nhất là ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ và Châu Âu khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong ký kết và thực hiện các đơn hàng. Xung đột Nga-Ukraine tiếp tục diễn biến phức tạp... Cùng với đó, nhiều quốc gia thực thi chính sách tăng cường bảo hộ sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước; đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung... đã ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch xuất nhập khẩu nông lâm sản của Việt Nam.
Việt Nam thu về 20,26 tỷ USD từ xuất khẩu nông lâm thủy sản. |
Thống kê trong 5 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm ước đạt 36,96 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu 20,26 tỷ USD (giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước), nhập khẩu 13,15 tỷ USD (giảm 8,7%), xuất siêu 3,55 tỷ USD (giảm 21,1%).
Trong khi đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu chính có giá trị xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước nên tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 20,26 tỷ USD, giảm 11,1%. Mặc dù xuất khẩu thuỷ sản, lâm sản vẫn liên tục giảm nhưng nhờ xuất khẩu nông sản và chăn nuôi tăng trưởng tốt nên tình trạng giá trị xuất khẩu giảm đang dần được cải thiện.
Trong khi nhóm nông sản đạt 10,3 tỷ USD, tăng 9,9%; chăn nuôi đạt 190 triệu USD, tăng 34,5% thì thuỷ sản đạt 3,47 tỷ USD, giảm 25,9%; lâm sản đạt 5,52 tỷ USD, giảm 26,8%; đầu vào sản xuất đạt 779 triệu USD, giảm 25,9% và muối đạt 2,0 triệu USD, giảm 11,9%.
Nhiều mặt hàng vẫn có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước như: cao nhất là gạo đạt 2,02 tỷ USD, tăng 49%; cà phê 2,02 tỷ USD, tăng 0,2%; rau quả 1,97 tỷ USD, tăng 39%; hạt điều 1,28 triệu USD, tăng 5,5%; thịt, phụ phẩm 58 triệu USD, tăng 59,1%...
Bên cạnh đó, một số mặt hàng lại có giá trị xuất khẩu giảm như: Cao su 799 triệu USD, giảm 24%; chè đạt 65 triệu USD, giảm 18,9%; hồ tiêu đạt 414 triệu USD, giảm 9,9%; sắn và sản phẩm sắn đạt 539 triệu USD, giảm 14,3%; cá tra 690 triệu USD, giảm 40,7%; tôm 1,22 tỷ USD, giảm 34,4%, gỗ và sản phẩm gỗ 5,1 tỷ USD, giảm 27,3%; mây, tre, cói thảm 298 triệu USD, giảm 28,4%...
Giá xuất khẩu bình quân một số nông sản xuất khẩu chính giảm. Hồ tiêu 3.011 USD/tấn, giảm 34,9%; phân bón các loại 415 USD/tấn, giảm 35,2%; cao su 1.378 USD/tấn, giảm 21,5%; sắn và sản phẩm từ sắn 382 USD/tấn, giảm 12%... riêng giá gạo đạt 517 USD/tấn, tăng 5,8%; cà phê đạt 2.295 USD/tấn, tăng 2,4%.
Về thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm tới các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 9,73 tỷ USD (tăng 2,3%); châu Mỹ đạt 4,42 tỷ USD (giảm 34,6%); châu Âu đạt 2,42 tỷ USD (giảm 13,2%); châu Phi đạt 327 triệu USD (giảm 5,6%); châu Đại Dương đạt 280 triệu USD (giảm 28%).
Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn nhất; trong đó giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao nhất với 20,4% (tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước); Hoa Kỳ chiếm 19,8% (giảm tới 35,2%) và Nhật Bản chiếm 7,8% (giảm 1,2%).
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết trong nước, các mặt hàng quả có nguồn cung dồi dào, tương đối ổn định, nhiều loại sắp vào vụ thu hoạch (xoài, sầu riêng, mít, chanh, vải). Chăn nuôi gia súc gia cầm vẫn nhiều khó khăn. Tuy nhiên dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh nông, lâm, thuỷ sản.
Nguồn:5 tháng, ngành nông nghiệp xuất siêu 3,55 tỉ USD, giảm 21,1% so với cùng kỳ