Bài 2: Phát triển thị trường tài chính xanh còn nhiều thách thức
Bài 1: Bức tranh tăng trưởng xanh tại Việt Nam |
Loạt vướng mắc khi triển khai tài chính xanh
Phát triển thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đã và đang được triển khai với mục tiêu khuyến khích bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, lĩnh vực này vẫn gặp phải nhiều khó khăn.
TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia tài chính - kinh tế. |
Theo TS. Cấn Văn Lực - chuyên gia tài chính - kinh tế, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, do xu hướng tăng trưởng bền vững đang là tất yếu nên thị trường tài chính xanh đang có cơ hội lớn để phát triển. Trong khi đó, việc cam kết COP26 đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư cho nhiều lĩnh vực như năng lượng tái tạo, quản lý chất thải, nông nghiệp xanh, vận tải carbon thấp, quản lý nước, ứng phó biến đổi khí hậu,...
Mặc dù vậy, thị trường này vẫn còn nhiều thách thức bởi chưa có các sản phẩm tài chính xanh (đặc biệt là sản phẩm tín dụng xanh) đặc thù; chưa có khung pháp lý, chính sách tổng thể, nhất quán liên quan đến tài chính xanh như quy định về phân loại xanh và xác nhận dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh,...
Trong khi đó, việc thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường, xã hội còn gặp nhiều khó khăn do đội ngũ chuyên gia, nhân sự trong lĩnh vực này tại Việt Nam còn khá hạn chế; thiếu cơ chế phối hợp và ưu đãi cho các hoạt động tài chính xanh như ưu đãi thuế, phí, về hạn mức tín dụng, về lãi suất;... Ngoài ra, các dự án xanh thường có kỳ hạn dài (có thể lên đến 20 năm), chi phí đầu tư lớn... trong khi các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn, trung hạn.
‘‘Yếu tố thách thức nữa là nhận thức của thị trường đối với ESG, tài chính xanh và bền vững chưa cao và chưa đồng đều. Hiện tại, rất nhiều công ty niêm yết chưa có sự chủ động trong việc đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; việc phát hành cổ phiếu xanh hầu như chưa có và báo cáo phát triển bền vững còn hạn chế...’’, ông Lực nhấn mạnh.
Còn theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, khi nói về công trình xanh, chúng ta hiểu rằng đây là những dự án đầu tư rủi ro. Thông thường, mức độ rủi ro có thể đo lường hoặc dễ dàng nhận ra. Ví dụ, một dự án có thể được đánh giá hiệu quả thông qua báo cáo tài chính hoặc một khoản vay ngân hàng. Mức độ rủi ro của những khoản vay này dễ dàng nhận diện.
Tuy nhiên, tín dụng xanh là một loại tín dụng dành cho các dự án cải tạo môi trường và hướng đến một môi trường sống xanh, sạch, đẹp hơn. Hiện tại, các tiêu chí để đo lường môi trường vẫn còn thiếu. Vì vậy, việc sử dụng tín dụng xanh cho các dự án môi trường gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá hiệu quả của dự án. Khi chưa có những tiêu chí nhất định để xác định môi trường xanh là gì và hiệu quả của nó ra sao, việc đo lường kết quả trở nên phức tạp và không chắc chắn.
Chính vì sự rủi ro này, việc xác định nguồn trả nợ và đánh giá hiệu quả của tín dụng xanh trở nên khó khăn, tạo ra những rủi ro cho các vấn đề liên quan đến tín dụng sạch.
Bên cạnh đó, còn có những nguyên nhân khác như: Nhiều doanh nghiệp và ngân hàng vẫn chưa hiểu rõ về lợi ích của tín dụng xanh và còn e ngại về tính rủi ro của các dự án xanh; các dự án xanh thường đòi hỏi công nghệ cao và nguồn nhân lực có chuyên môn sâu, trong khi đó, nguồn lực này ở Việt Nam còn khá hạn chế; mặc dù Nhà nước đã có một số chính sách hỗ trợ, nhưng chính sách đó vẫn chưa đủ mạnh và đồng bộ để thúc đẩy tín dụng xanh phát triển mạnh mẽ hơn.
“Tín dụng xanh hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào các tổ chức tín dụng lớn. Các khoản tín dụng xanh có thủ tục phức tạp, quy định không rõ ràng gây khó khăn cho việc vay vốn để triển khai dự án xanh. Triển khai tín dụng xanh đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian đầu tư lâu dài, quy trình thẩm định phức tạp trong khi hiệu quả tài chính chưa cao, trong khi đó mục tiêu chính của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận”, ông Hiếu nhận định.
Giải pháp nào để phát triển tài chính xanh tại Việt Nam?
Để phát triển nhanh thị trường tài chính xanh, theo các chuyên gia, một số giải pháp cần được triển khai thực hiện đồng bộ và có hệ thống.
Phát triển tài chính xanh tại Việt Nam còn nhiều thách thức/Ảnh minh họa. |
Theo TS. Cấn Văn Lực, cần phải gắn kết các chiến lược, kế hoạch phát triển xanh và tài chính xanh với quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Kế đến là cập nhật, ban hành và áp dụng tiêu chí, tiêu chuẩn đối với danh mục “phân loại xanh” (danh mục xanh/Green Taxonomy), trong đó nên có xác định lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên; nên ở cấp độ quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Ông Lực cũng cho rằng, cần có cơ chế, tiêu chí, phương thức đánh giá tác động môi trường (tiêu chí “dự án, công trình, nhà máy xanh,...”); ban hành chính sách thay đổi hành vi (nhất là tiêu dùng, sinh hoạt,...); đầu tư cơ sở hạ tầng “xanh” (năng lượng tái tạo, công nghệ khai khoáng,...); khuyến khích, hỗ trợ đổi mới sáng tạo (xe điện, xe tiết kiệm năng lượng,...).
Tiếp đến là các chính sách hỗ trợ tài chính (thuế, phí, lãi suất, gồm cả chi phí xác nhận xanh, nếu có...) cho các sản phẩm, dịch vụ, tiêu dùng “xanh”; nghiên cứu thành lập “Quỹ chuyển đổi xanh”, “Quỹ đầu tư mạo hiểm môi trường”; thu hút nguồn lực tư nhân tham gia đầu tư “xanh”; xây dựng hệ sinh thái tài chính xanh như công cụ thị trường vốn, nền tảng nhà đầu tư, hệ sinh thái các tổ chức phát hành, văn hóa quản trị nội bộ rủi ro môi trường trong tổ chức và hạ tầng thông tin theo kinh nghiệm của Malaysia... và các nước khác.
Còn theo bà Trần Thị Thu Hương - Khoa Tài chính - Học viện Ngân hàng, Nhà nước cần đóng vai trò dẫn dắt thực hiện phát triển tài chính xanh. Phải có cơ chế và chính sách rõ ràng để phát triển các sản phẩm tài chính xanh như trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh và tín dụng xanh. Chính phủ cũng cần ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực xanh và tạo điều kiện thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế.
Cần xây dựng tiêu chí thống nhất cho chứng khoán và tín dụng xanh, tăng cường các tổ chức định giá và minh bạch các chỉ số xếp hạng xanh.
Doanh nghiệp nên có chiến lược xanh hóa hoạt động kinh doanh, đổi mới công nghệ theo hướng bền vững và tăng cường trách nhiệm xã hội.
Việt Nam cần phát triển nhà đầu tư tổ chức, chuyên nghiệp, đồng thời khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường tài chính xanh và áp dụng các tiêu chuẩn môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.
“Cần tăng cường tuyên truyền và đào tạo về tài chính xanh, minh bạch thông tin liên quan đến đầu tư xanh, nhằm tạo nhu cầu cho thị trường tài chính xanh. Các giải pháp này sẽ góp phần đạt được mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, bà Hương cho biết.
Nguồn: Bài 2: Phát triển thị trường tài chính xanh còn nhiều thách thức