Bảo đảm “quyền thụ hưởng” của Nhân dân bằng pháp luật theo quan điểm Đại hội Đảng lần thứ XIII
Thực hiện ý nguyện của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Quốc hội tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và Trọng danh dự, nỗ lực tu dưỡng, rèn luyện |
1. Một số vấn đề lý luận
1.1. Khái niệm bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân bằng pháp luật
Quyền thụ hưởng là một trong những quyền con người đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế nhằm bảo đảm vấn đề nhân quyền trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, mọi người đều có quyền được sống và thụ hưởng đầy đủ các quyền con người, bao gồm các quyền về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa1.
Quyền thụ hưởng của Nhân dân luôn được chú trọng ở Việt Nam. Trên cơ sở ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền con người, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp và pháp luật; trong đó, nhấn mạnh và bảo đảm quyền được thụ hưởng các thành quả chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của Nhân dân. Điều này xuất phát từ bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, luôn coi lợi ích của Nhân dân là mục đích tồn tại và phát triển của mình.
Quyền thụ hưởng của Nhân dân được bảo đảm bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó quan trọng bậc nhất là bảo đảm bằng pháp luật. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy định về “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thì Chương II Hiến pháp năm 2013, vấn đề này đã được nâng lên thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh trong Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định tư duy mới của Đảng và Nhà nước trong việc thừa nhận quyền con người – trong đó có quyền thụ hưởng của con người là quyền cơ bản, tự nhiên, tất yếu cần được tôn trọng và bảo vệ. Đồng thời, khẳng định cam kết, nỗ lực mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện các cam kết về bảo đảm thực hiện các quyền con người, trong đó có quyền thụ hưởng trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14). Nói cách khác, việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân trên nguyên tắc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền thụ hưởng của con người trên các lĩnh vực dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nói riêng là cần thiết và tất yếu.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật chuyên ngành đã cụ thể hóa các quyền của cá nhân công dân trong việc được thụ hưởng các giá trị, thành quả về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đề cao bảo vệ, bảo đảm quyền công dân nói chung và quyền thụ hưởng của Nhân dân nói riêng trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật, thông qua sức mạnh pháp lý quốc gia để bảo vệ quyền thụ hưởng của Nhân dân một cách tối ưu và hiệu quả nhất.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân bằng pháp luật là việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân trong hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
1.2. Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân
Thứ nhất, pháp luật là phương tiện để ghi nhận và bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định trong nhiệm kỳ tới tiếp tục thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Đây là quan điểm hoàn toàn mới đáp ứng yêu cầu về lý luận và phù hợp với tình hình thực tiễn theo tinh thần: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”2.
Về vấn đề “Dân thụ hưởng”, sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Với tư cách là người chủ của đất nước, Nhân dân có quyền được thụ hưởng những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình với những thành quả về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Đó trước hết chính là quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Nhân dân được nhận, thụ hưởng thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Các quyền thụ hưởng này được thể hiện trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật bao gồm:
(1) Được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Người dân được bảo đảm thực hiện các quyền, tự do của mình theo quy định của pháp luật. Các quyền này được ghi nhận từ Điều 14 – 43 Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở các quyền được Hiến định, Nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật chuyên ngành hành chính, dân sự, kinh tế… nhằm bảo đảm thực hiện các quyền của công dân trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
(2) Được thông tin đầy đủ, kịp thời về các quyền và lợi ích hợp pháp, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội theo quy định của pháp luật và quyết định của chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức ở nơi mình cư trú, công tác, làm việc. Theo đó, để bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” (Điều 25). Trên cơ sở đó, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã chính thức luật hóa quyền tiếp cận thông tin của công dân, là cơ sở để bảo đảm mỗi cá nhân công dân đều được cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết, bảo đảm quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình.
(3) Được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội, chế độ an sinh xã hội, sự an toàn, ổn định của đất nước, của địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động và kết quả thực hiện dân chủ ở nơi mình cư trú, công tác, làm việc. Pháp luật đã góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân theo hướng ngày càng đầy đủ, khách quan, minh bạch và hiệu quả hơn.
(4) Được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất – kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng. Đây là quyền con người hiến định trong pháp luật Việt Nam và pháp định tại các văn bản pháp luật như: Luật Di sản văn hóa năm 2001; Luật Thi đua, khen thưởng sửa đổi năm 2013; Luật Giáo dục năm 2019; Bộ luật Lao động năm 2019…
Thứ hai, pháp luật quy định các biện pháp để bảo đảm thực hiện quyền thụ hưởng của Nhân dân. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân, pháp luật Việt Nam hiện hành đã có quy định cụ thể về các biện pháp để bảo đảm thực hiện quyền hiệu quả và thống nhất trên thực tế. Pháp luật quy định những hành vi bị nghiêm cấm, chế tài nhằm ngăn chặn và xử lý những hành vi xâm phạm tới quyền thụ hưởng của Nhân dân.
Thứ ba, pháp luật quy định hệ thống thiết chế bảo đảm thực hiện quyền thụ hưởng của Nhân dân hiệu quả, khách quan, minh bạch. Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân, Đảng và Nhà nước đã chú trọng trong việc xây dựng các thiết chế về bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân – trong đó có quyền thụ hưởng của Nhân dân. Theo Hiến pháp năm 2013, các thiết chế này bao gồm: Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện Kiểm sát), các bộ, ngành có liên quan, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Pháp luật hiện hành cũng đã quy định về việc thành lập các cơ quan chuyên môn, chuyên trách nhằm bảo đảm việc thực thi các quyền con người, quyền công dân -trong đó có quyền thụ hưởng của Nhân dân một cách thống nhất và hiệu quả.
Tuy nhiên, phải khẳng định rõ ràng rằng, trong vấn đề xây dựng và tổ chức thực thi phương châm “Dân thụ hưởng”, cần quán triệt và làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa quyền được “thụ hưởng” và nghĩa vụ bảo đảm thực thi các nghĩa vụ công dân của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong hoạt động xây dựng và phát triển đất nước. Quyền được “thụ hưởng” của Nhân dân, do đó phải là các quyền và lợi ích hợp pháp, được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bởi Hiến pháp và hệ thống pháp luật chuyên ngành. Mặt khác, chủ trương “Dân thụ hưởng” cần được hiểu và xác định rõ ràng là “có làm thì mới có hưởng” – nghĩa là quyền lợi được ghi nhận và bảo đảm luôn gắn liền với nghĩa vụ trong việc thực hiện các nhiệm vụ, nghĩa vụ của công dân đối với Đảng và Nhà nước. Sự thụ hưởng hiện tại trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Quyền lợi này là công bằng, hướng tới mọi tầng lớp nhân dân mà không có sự phân chia về địa vị, tầng lớp, giai cấp xã hội… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Trong tương lai, khi xã hội phát triển, đích đến của sự thụ hưởng này ở Việt Nam chính là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Đây là sự phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về tư tưởng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
2. Một số hạn chế của pháp luật trong bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân
Một là, hệ thống pháp luật chuyên ngành về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân còn bất cập, vướng mắc. Theo đó, hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân còn tồn tại một số yếu tố bất hợp lý, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi, chưa phù hợp với yêu cầu về bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013 khi một số quyền của công dân như: quyền lập hội, quyền biểu tình… vẫn chưa được cụ thể hóa thông qua hệ thống pháp luật. Một số quy định pháp luật hiện hành còn chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện hiệu quả các quyền thụ hưởng của Nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, như: quyền của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương; quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền được suy đoán vô tội, quyền được im lặng của bị can, bị cáo, người bị bắt giữ…
Hai là, xu thế phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ mới đặt ra nhiều thách thức cho Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng. Có thể thấy, xu thế phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng đã dẫn tới sự hình thành những yêu cầu mới và đa dạng hơn trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân. Quá trình phát triển kinh tế – xã hội đã góp phần nâng cao thu nhập và trình độ dân trí của người dân, từ đó, làm gia tăng những nhu cầu trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tạo ra những khả năng mới trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân trong thời kỳ mới. Do đó, bên cạnh những nhu cầu thụ hưởng các quyền cơ bản, như: quyền được sống, quyền được học lập, lao động, quyền được chăm sóc sức khỏe… cũng đã xuất hiện thêm các nhu cầu về việc thụ hưởng các quyền mới như quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền của giới tính “thứ ba”; quyền của kiều dân nước ngoài định cư tại Việt Nam và Việt kiều…
Mặt khác, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phân hóa giai cấp, phân tầng xã hội không chỉ bị tác động bởi sự phân hóa giàu nghèo mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người và quá trình giao lưu văn hóa quốc tế. Vấn đề này đặt ra cho Đảng và Nhà nước những thách thức lớn trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của các tầng lớp Nhân dân với trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau. Nhà nước có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao các quyền thụ hưởng cho các nhóm dân cư tại các khu vực phát triển; đồng thời, tiếp tục bảo đảm các quyền thiết yếu, cơ bản cho các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương.
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhận thức và ý thức pháp luật về bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân còn hạn chế. Trong thời gian qua, vấn đề bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng đã được tuyên truyền và phổ biến mạnh mẽ tới các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng dân cư nhằm xây dựng cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền thụ hưởng của Nhân dân nói riêng một cách thống nhất và hiệu quả. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất quyền thụ hưởng của Nhân dân là quyền có nội hàm rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề “nhạy cảm”, như: dân chủ, tôn giáo, dân tộc, tư pháp, tiếp cận thông tin, biểu tình, tố cáo, khiếu nại… dẫn đến tình trạng còn một số bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa nắm rõ nội dung, phương thức, yêu cầu trong việc bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân; dẫn tới tư duy lệch lạc, phiến diện trong việc phổ biến, tuyên truyền quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề này; từ đó dẫn tới việc vô ý hoặc cố ý vi phạm các quyền thụ hưởng của Nhân dân.
3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân bằng pháp luật theo quan điểm Đại hội Đảng XIII của Đảng
Thứ nhất, bảo đảm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn kiên trì và đồng nhất một mục tiêu duy nhất trong việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Do đó, để tiếp tục phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền được thụ hưởng của Nhân dân trong thời kỳ mới, cần tiếp tục bảo đảm thể chế hóa một cách kịp thời, đầy đủ, thống nhất chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó, xây dựng và bảo đảm thực hiện hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân theo định hướng phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi, phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối đó. Quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề này sẽ góp phần tạo ra khuôn khổ vững chắc cho việc tổ chức, vận hành xã hội của các tổ chức chính trị, đoàn thể trong xã hội theo định hướng thống nhất, hiệu quả; trên cơ sở đó góp phần xây dựng một Nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, ngày càng bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân.
Thứ hai, bảo đảm quyền thụ hưởng của Nhân dân trên cơ sở xử lý hài hoà mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội.
Như trên đã phân tích, tư tưởng về việc bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân phải được xác lập và bảo đảm trên cơ sở mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa Nhà nước và Nhân dân. Đó là tư tưởng về “quyền lợi” phải gắn liền với “nghĩa vụ” và “trách nhiệm”; về sự can thiệp đúng đắn và hợp lý của Nhà nước vào các mối quan hệ trong đời sống xã hội dân sự. Nói cách khác, yêu cầu bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân phải được thực hiện trên cơ sở xử lý hài hoà mối quan hệ giữa thực hành dân chủ về bảo đảm quyền được thụ hưởng các thành quả lao động do Nhân dân kiến tạo với yêu cầu thực thi đầy đủ các nghĩa vụ của Nhân dân với Đảng và Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là yêu cầu tất yếu nhằm tăng cường pháp chế, giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội trên con đường xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chỉ có như vậy, Nhân dân mới có thể thụ hưởng được những thành quả của mình một cách vững chắc, lâu dài và tốt đẹp hơn.
Thứ ba, bảo đảm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trên cơ sở sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát có hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng và thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân.
Quyền được thụ hưởng của Nhân dân chỉ có thể được xây dựng và bảo đảm thực hiện một cách thống nhất, hiệu quả trên cơ sở có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo đảm thực hiện dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển hiện nay. Với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức được các quy luật vận động và xu hướng phát triển của Nhà nước và xã hội trên cơ sở các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và tình hình quốc tế; từ đó, đề ra mục tiêu và con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, cũng như những chủ trương, đường lối, chính sách phát triển của đất nước cho phù hợp.
Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hệ thống chính sách, pháp luật làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; qua đó, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Do đó, để Nhân dân ngày càng được “thụ hưởng” đầy đủ hơn các quyền của mình, đó không chỉ là nhiệm vụ của một tổ chức, cá nhân mà đã trở thành sứ mệnh chung của cả hệ thống chính trị, của Đảng, Nhà nước và xã hội trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân trên nền tảng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện tại, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ tư, bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân trên cơ sở bảo đảm sự tương thích với pháp luật quốc tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang ngày càng diễn ra sâu rộng như hiện nay, vấn đề bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân được xem xét là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tiến bộ và trình độ văn minh của xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế xã hội và văn hóa. Trên cơ sở lý luận cũng như xuất phát từ thực tiễn, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được xem xét là yếu tố quan trọng và cần thiết để cá nhân có thể tồn tại và phát triển bình thường với tư cách là một thành viên của một cộng đồng xã hội trong một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định.
Đảng và Nhà nước ta phải tiếp tục hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền con người, quyền công dân cho phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia. Đồng thời, chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất, khả thi, minh bạch, hiệu quả. Trên cơ sở đó, phát huy mạnh mẽ dân chủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của Quốc hội – cơ quan đại biểu dân cử của Nhân dân. Chỉ có như vậy, Nhân dân mới ngày càng được bảo đảm tốt hơn các quyền con người, quyền công dân phù hợp với phương châm bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân trên nền tảng hệ thống pháp luật đồng bộ, tôn trọng và bảo vệ con người.
Thứ năm, nâng cao năng lực, trình độ, tinh thần và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình về bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân.
Xuất phát từ những hạn chế về năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ; do đó, mục tiêu trước mắt là tập trung nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ để tăng cường năng lực làm việc, tổ chức các lớp học chuyên sâu nhằm giúp cán bộ, công chức, viên chức thấm nhuần và nắm rõ được chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng thời kì phát triển, từ đó áp dụng hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội ở địa phương mình.
Bên cạnh đó, xuất phát từ thực trạng một số cán bộ, công chức, viên chức nói chung xuất hiện tình trạng suy thoái, biến chất, thực hiện những hành vi làm ảnh hưởng tới sự nghiêm minh của pháp luật, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, suy giảm lòng tin của nhân dân. Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh và nghiêm túc xây dựng một bộ máy hành chính nhà nước thật sự liêm chính và kiến tạo. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước phải là những con người liêm chính và hành động. Người làm cán bộ, trước hết phải biết khép mình vào kỷ cương pháp luật; phải tôn trọng và chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật; ngoài việc chỉ được phép làm những gì pháp luật cho phép thì còn phải làm hết những gì pháp luật yêu cầu. Chủ thể mang quyền phải được kiểm soát bằng pháp luật, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và giải trình trước Nhân dân.
Mặt khác, ở mỗi địa phương, cần phải huy động sự vào cuộc quyết liệt của các chủ thể trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, siết chặt kỷ cương pháp luật, kỷ luật công vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, chất lượng phục vụ, văn hóa ứng xử…của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Để thực hiện được hoạt động này, cần rà soát hoặc xây dựng lại các đề án cải cách hành chính, tinh giản biên chế, mạnh dạn cắt bỏ hoặc xã hội hóa những bộ phận không cần thiết, hoạt động kém hiệu quả. Đồng thời cần tiến hành rà soát thủ tục hành chính, loại bỏ những thủ tục phiền nhiễu, dễ bị lợi dụng để gây yêu sách với người dân. Bên cạnh đó, cần tiến hành xây dựng lại đề án vị trí việc làm đối với toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan hành chính nhà nước sao cho với mỗi vị trí công tác, mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải có những công việc, nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể gắn với quyền hạn và trách nhiệm riêng làm cơ sở để lượng hóa và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức đó.
Thứ sáu, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về dân chủ nói chung và vấn đề “Dân thụ hưởng” nói riêng.
Theo đó, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền và quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo đảm xây dựng nền dân chủ trong Nhà nước pháp quyền XHCN tới đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật tới quần chúng, kiên quyết đẩy lùi, đấu tranh phòng, chống các tư tưởng lệch lạc, luận điệu sai trái về vai trò của Đảng và hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước về dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và bảo đảm quyền được thụ hưởng của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Bảo đảm dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân luôn là khát vọng và mục tiêu vươn tới của con người trong lịch sử nhân loại; cũng chính là nền tảng cho sự độc lập và giàu mạnh của quốc gia. Do đó, bảo đảm và đáp ứng ngày càng tốt hơn quyền được thụ hưởng của Nhân dân trên cơ sở tôn trọng Hiến phápvà pháp luật, bảo đảm cân bằng mối quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân là xu hướng phát triển tất yếu đối với nền chính trị của mọi quốc gia, đặc biệt với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân của Đảng và Nhà nước ta. Đó là bản chất cũng như là mục tiêu chính trị đã được Đảng và Nhà nước khẳng định và tiếp tục giữ vững trên con đường xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của Nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Chú thích:
1. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights – ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27 – 28.
Tài liệu tham khảo:
1. C.Mác, Ph. Ăngghen (1998). Về quyền con người. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015). Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp Việt Nam (sách chuyên khảo).
3. Quốc hội (2015). Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Vũ Công Giao (2001). Cơ chế của Liên hợp quốc về nhân quyền. Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.
5. United Nations. Frequently Asked Questions on a Human Rights – based Approach to Development Cooperation (No.E.06 XIV.10).
6. Bài viết phục vụ cho đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Bảo đảm “dân giám sát, dân thụ hưởng” bằng pháp luật theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam ở vùng Đông Nam Bộ hiện nay, năm 2024 -2025.
Nguồn: Bảo đảm “quyền thụ hưởng” của Nhân dân bằng pháp luật theo quan điểm Đại hội Đảng lần thứ XIII