Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Không lực lượng chính trị nào thay thế được vị thế, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam Bài 1: Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc |
Những bước ngoặt căn bản của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay
Giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị trên đất nước ta, các phong trào yêu nước Việt Nam liên tục diễn ra, nhưng đều lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Trước bối cảnh đó, ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi của phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Đánh giá về sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(1). Ngay từ khi ra đời, Đảng đã thực sự trở thành người lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam; đồng thời, xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một cương lĩnh chính trị đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam; trong đó, mục tiêu, lý tưởng của Đảng phù hợp, đáp ứng đúng nguyện vọng của giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động và của toàn dân tộc, đó là: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”(2), “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”(3). Chính vì vậy, chỉ sau 15 năm đi theo con đường cách mạng được Đảng hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, với sự bổ sung, hoàn thiện về con đường cách mạng giải phóng dân tộc (qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939; tháng 11-1940 và Hội nghị lần thứ 8 khóa I của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941)), dân tộc Việt Nam đã giành được thắng lợi vĩ đại - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - đưa dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do: “... lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(4).
Thiêng liêng Lễ Thượng cờ trên Quảng trường Ba Đình_Nguồn: zingnews.vn |
Tiếp tục trải qua 21 năm chiến đấu (1954 - 1975) kiên cường, không sờn lòng trước khó khăn, gian khổ, nhân dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, non sông thu về một mối. Thắng lợi đó đã đánh dấu một bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, quá độ đi lên CNXH.
Sau 30 năm chiến tranh, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH từ những buổi đầu mới mẻ, đối diện với thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, trong khu vực và trên trường quốc tế, đặc biệt là sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch. Trước bối cảnh đó, Đảng đã kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới; kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, bước đầu hình thành một hệ thống quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, khai phá con đường đi lên CNXH phù hợp với thực tế của đất nước.
Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá được thế bao vây, cấm vận, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để đất nước ngày càng phát triển, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mấy năm gần đây, mặc dù tình hình thế giới có diễn biến phức tạp, nhanh chóng cùng nhiều yếu tố mới, bất ngờ, xuất hiện các rủi ro trong cả ngắn hạn và dài hạn, tác động đa chiều đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, nhưng với những quyết sách, giải pháp quyết liệt, kịp thời, sát thực tế, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của Đảng, nền kinh tế Việt Nam đã cơ bản vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Các diễn giả, chuyên gia trong nước, quốc tế đều đánh giá cao môi trường chính trị - kinh tế - xã hội ổn định của Việt Nam. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nhận định Việt Nam là một điểm sáng trong “bức tranh xám màu” của kinh tế toàn cầu(6). Cùng với tăng trưởng 8,02% trong năm 2022, quy mô GDP theo giá hiện hành của Việt Nam đứng thứ 38 thế giới, nếu tính theo sức mua tương đương PPP, đứng thứ 10 châu Á và thứ 24 thế giới (theo IMF). Quy mô ngoại thương năm 2022 của chúng ta đạt gần 735 tỷ USD, thu hút đầu tư FDI lũy kế đạt gần 450 tỷ USD từ 143 quốc gia, vùng lãnh thổ(7).
Thực tiễn lịch sử ấy chứng tỏ đúng như niềm tự hào mà Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8).
Niềm tin về sự hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Thực tiễn lịch sử 94 năm qua kể từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho đến nay là cơ sở khách quan và là niềm tin vững chắc về tiến trình hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(9) như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên trên hết; vì vậy, đã thu phục, tập hợp, khơi dậy được khát vọng của toàn thể dân tộc trong hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng qua các chặng đường cách mạng.
Ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã xác định rõ mục tiêu, lý tưởng của Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến. Tinh thần ấy đã xuyên suốt trong cuộc vận động giải phóng dân tộc với sức thu hút to lớn, nhanh chóng lan tỏa của Mặt trận Việt Minh trên khắp mọi miền đất nước, tạo nên đội quân cách mạng đông đảo, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Khi Đảng mới cầm quyền, chính quyền cách mạng còn non trẻ, trước âm mưu tìm mọi cách tiêu diệt Đảng Cộng sản của các thế lực thù địch, Đảng đã rút vào hoạt động bí mật để tránh tổn thất cho nhân dân. “Thông cáo tự giải tán Đảng Cộng sản” chỉ rõ: “... những đảng viên cộng sản là những chiến sĩ tiền phong của dân tộc, bao giờ cũng hy sinh tận tụy vì sự nghiệp giải phóng của toàn dân, sẵn sàng đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của giai cấp, hy sinh quyền lợi riêng của đảng phái cho quyền lợi chung của dân tộc”(10).
Đặc biệt, từ sau khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng luôn luôn phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc và của các tầng lớp nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hóa tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân”(11). Vì vậy, sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, tiếp tục thực hiện con đường cách mạng đã lựa chọn, Đảng xác định đưa cả nước bước sang chặng đường mới - đó là “tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam”(12).
Lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của toàn thể dân tộc là mục tiêu, lý tưởng phấn đấu của Đảng và cũng chính là cội nguồn sức mạnh của Đảng qua các chặng đường lịch sử cách mạng Việt Nam. Do vậy, không chỉ mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, mà trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn xác định quan hệ mật thiết với nhân dân được coi như một nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi./ Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”(13).
Trong mọi thời điểm, Đảng luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã xác định chủ trương đoàn kết tất cả giai cấp, lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(14). Đến Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (năm 1951), nhận thức về lực lượng cách mạng Việt Nam đã được phát triển cụ thể hơn: “Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân”(15). Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(16).
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng xác định “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(17). Chính vì vậy, trước bối cảnh lịch sử mới, Đảng khẳng định: “... kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(18). Với tinh thần ấy, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là mục tiêu, lý tưởng của Đảng cũng chính là khát vọng của nhân dân. Một khi “ý Đảng hợp với lòng dân” thì đường lối của Đảng sẽ được hiện thực hóa bằng phong trào cách mạng của quần chúng.
Thứ hai, Đảng đã vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng và khoa học vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và khẳng định đây chính là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất” để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”(19). Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử. Đó là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong mọi hoàn cảnh lịch sử.
Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nước XHCN trên thế giới lâm vào khủng hoảng toàn diện, trầm trọng, dẫn tới sự sụp đổ chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Trước bối cảnh vô cùng khó khăn của đất nước khi đó, Đảng đã khẳng định dứt khoát, đối với Việt Nam “không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”(20). Tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(21).
Sau gần 40 năm tiến hành đổi mới đất nước, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Việt Nam, Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp thực tiễn Việt Nam”(22). Đây chính là nền tảng tư tưởng đã soi đường, dẫn lối để “... tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam”(23). Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Từ khi ra đời đến nay, các cương lĩnh, đường lối của Đảng là thành quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử mới. Do vậy, đường lối đó đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, phản ánh sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã gắn bó Đảng với nhân dân bằng cả chiều dài và cả chiều sâu lịch sử, không có lực lượng chính trị nào thay thế được vị trí, vai trò đó của Đảng trong lòng dân tộc.
Thứ ba, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới và chỉnh đốn.
Ngay trong văn kiện đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930), Đảng đã xác định nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”(24). Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng để lãnh đạo được thì Đảng phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình” và muốn “thu phục” thì phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời, để “làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” thì Đảng phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Luận cương của Đảng thông qua tháng 10-1930, tiếp tục khẳng định: “... điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”(25). Chính vì vậy, trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích” (năm 1939), tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng, khắc phục hạn chế, giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng. Chỉ sau một thời gian ngắn Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947). Đây là tác phẩm rất quan trọng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người vừa nêu lên ưu điểm, vừa phê phán sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên; xác định 12 chuẩn mực về tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Năm 1969, với bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những giá trị cốt lõi về vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng cầm quyền. Với quan điểm “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, Người khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền” và để làm tròn nhiệm vụ của một đảng cách mạng, tiền phong, đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh.
Quán triệt tư tưởng của Người, trong thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH, Đảng ngày càng thấy rõ sự cần thiết phải đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đến Đại hội VII của Đảng, vấn đề đổi mới Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng được đặt ra: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”(26). Đặc biệt từ Đại hội VIII của Đảng đến nay, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (tháng 1-1999); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 1-2012); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (tháng 10-2016); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII (tháng 10-2021). Các nghị quyết về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa cơ bản, lâu dài và hợp lòng dân, vừa tập trung vào những vấn đề trọng tâm, cấp bách trước mắt; với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, gắn chặt phòng ngừa với chủ động tiến công để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đây là những vấn đề quan trọng, cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay, cũng là khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ cách mạng, trong đó việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được coi là “nhiệm vụ then chốt, đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta”. Thông điệp này góp phần củng cố niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trên con đường mà Đảng đã chọn.
Từ nhiệm kỳ khóa XII đến nay, Đảng đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, nhất là dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến nay, có hơn 1.400 tổ chức đảng, hơn 66.000 đảng viên bị kỷ luật. Chỉ tính riêng trong năm 2023, qua kiểm tra kết luận 213 tổ chức đảng có vi phạm, phải thi hành kỷ luật 87 tổ chức đảng; có 1.814 đảng viên vi phạm, phải thi hành kỷ luật 1.287, đã thi hành kỷ luật 1.169 đảng viên(27). Việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát không chỉ phòng ngừa góp phần cảnh báo từ sớm, từ xa những vụ việc tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, mà còn củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Nhìn lại quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cho thấy rõ, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với dân tộc mà trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng đều thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Chính vì vậy, Đảng đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ.
Thứ tư, chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng Việt Nam phát triển phù hợp với xu thế chung của nhân loại.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã xác định tính tự lực, tự cường, đồng thời xác định rõ lực lượng đồng minh quốc tế - đó là sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp: “... trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”(28). Đảng chủ trương không chỉ đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cách mạng giải phóng dân tộc trên khắp thế giới, nhằm phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ và sự chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thực tiễn sinh động minh chứng cho chủ trương biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh lịch sử khi chưa có chính quyền. Đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chủ trương đối ngoại của Đảng đã có bước phát triển rõ rệt: “Những nguyên tắc của chính sách ngoại giao là nước ta và các nước tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến... Mở rộng ngoại giao nhân dân; giao thiệp thân thiện với chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên”(29). Những nguyên tắc đó đã được hiện thực hóa, kết hợp sức mạnh đoàn kết và sự sáng tạo của nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa điều kiện thuận lợi để mở rộng và phát huy sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vĩ đại của 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, lần đầu tiên Văn kiện quan trọng của Đảng (năm 1991) tuyên bố: “Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(30). Hai mươi năm sau, với vị thế của Việt Nam đã thay đổi trên chính trường quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng khẳng định rõ hơn sự chủ động hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội nhập quốc tế”(31). Như vậy, nhận thức về đường lối đối ngoại của Đảng đã có bước phát triển, thể hiện ở sự khẳng định Việt Nam không chỉ “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, mà còn “góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(32). Sau 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) xác định nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại bao gồm ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Cùng với đó, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng đã được nâng lên tầm cao mới, tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, hợp tác ngày càng mở rộng, thực chất và hiệu quả; vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam được khẳng định nổi bật tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng.
Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Chủ trương đối ngoại của Đảng mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”: “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường”. Phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại là: “... phải đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới,... trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn”(33).
Đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ lịch sử đã phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã đạt được càng có ý nghĩa trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế thế giới trải qua nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, như cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, cuộc xung đột Nga - U-crai-na xảy ra đến nay vẫn chưa có hồi kết, kinh tế - xã hội toàn cầu gặp nhiều khó khăn lớn...
Vẫn biết rằng, trước những thách thức do xung đột địa - chính trị và sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nguy cơ lạm phát tại các thị trường chủ chốt của Việt Nam vẫn tiềm ẩn, quy mô thị trường trong nước còn nhỏ, đầu tư khu vực tư nhân chưa phục hồi..., nhưng với một chính đảng đã có bề dày truyền thống, với bản lĩnh chính trị vững vàng, đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, “ý Đảng hợp lòng dân”, và những điểm sáng của nền kinh tế trong năm 2023, những động lực cho tăng trưởng hiện nay sẽ tạo đà tăng trưởng cho năm 2024 và các năm tiếp theo. Đó chính là cơ sở quan trọng, là niềm tin vững chắc vào sự hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển hùng cường, thịnh vượng vào thời điểm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định./.
------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 406
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 1, 2
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 25
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 3
(6) Xem: “Triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 tiếp tục được đánh giá tích cực”, Báo Nhân Dân, ngày 22-5-2023, https://nhandan.vn/trien-vong-kinh-te-viet-nam-trong-nam-2023-tiep-tuc-duoc-danh-gia-tich-cuc-post753950.html
(7) Xem: Bảo Yến: “Nhìn lại diễn đàn kinh tế - xã hội năm 2023: Nhận diện bối cảnh trong nước và quốc tế”, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 6-10-2023, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=80684
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 35 - 36
(10) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 19
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 402
(12) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 444
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 326
(14) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 4
(15) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 434
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 41
(17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 65
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 96 - 97
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 120
(20), (21) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 13 - 14, 208
(22) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 94
(23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 23
(24), (25) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 4, 100
(26) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 21
(27) Xem: “Những dấu ấn nổi bật về công tác Xây dựng Đảng năm 2023”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản, ngày 1-1-2024, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nhung-dau-an-noi-bat-ve-cong-tac-xay-dung-dang-nam-2023-656914.html
(28) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 4 - 5
(29) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 441
(30) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 144
(31) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 83
(32) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 83 - 84
(33) Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 980, tháng 12-2021, tr. 23
Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
PGS, TS TRẦN THỊ THU HƯƠNG
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh