Đẩy mạnh công tác bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên
Thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên ở Việt Nam Bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên Vườn Quốc gia Ba Vì |
Việt Nam là một trong 12 trung tâm đa dạng sinh học, một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất trên toàn cầu với các nguồn gen quý, hiếm. Trong đó, hơn 50.000 loài đã được xác định trong đó có 20.000 loài thực vật trên cạn và dưới nước, 10.500 động vật trên cạn, 2.000 loài động vật không xương sống và cá nước ngọt, cùng hơn 11.000 loài sinh vật biển. Đến nay cả nước đã thành lập 181 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 34 vườn quốc gia, 60 khu dự trữ thiên nhiên, 22 khu bảo tồn loài và sinh cảnh và 65 khu bảo vệ cảnh quan, với tổng diện tích hơn 2,64 triệu ha. Ngoài ra, cả nước có 9 khu đất ngập nước được công nhận là khu Ramsar thế giới và có hơn 20 địa phương phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp tỉnh, thành phố.
Theo đánh giá của Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, các vùng đất ngập nước, cảnh quan thiên nhiên quan trọng, những khu vực là đối tượng phục hồi hoặc tái thiết lập các chức năng hệ sinh thái tự nhiên... Các khu vực trên có cơ hội để công nhận là Khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác ngoài khu bảo tồn thiên nhiên” (OECM). Đây là những khu vực được xác định về mặt địa lý, không phải là khu bảo tồn; được quản trị và quản lý nhằm đạt được kết quả tích cực và bền vững lâu dài về bảo tồn đa dạng sinh học tại chỗ. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục nghiên cứu và xây dựng khung pháp luật quy định việc thành lập và quản lý OECM như một cách tiếp cận bảo tồn mang tính sáng tạo.
Việt Nam với các vùng đất ngập nước, cảnh quan thiên nhiên quan trọng, những khu vực là đối tượng phục hồi hoặc tái thiết lập các chức năng hệ sinh thái tự nhiên... |
Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh – Montreal kêu gọi thế giới đạt được mục tiêu đến năm 2030, 30% diện tích đất liền và biển của trái đất được bảo tồn thông qua việc thành lập các khu bảo tồn và các OECM - hay còn được biết đến là mục tiêu 30x30. Đây cũng là một trong những ưu tiên Chiến lược đa dạng sinh học của Việt Nam. Thời gian qua, Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học đã tham mưu xây dựng và trình ban hành, góp phần kiện toàn hành lang pháp lý về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học của Việt Nam.
Theo đánh giá của các chuyên gia, khác với khu bảo tồn phải có mục tiêu chính là bảo tồn, các OECM có thể được quản lý với nhiều mục đích khác nhau nhưng phải đạt được mục tiêu bảo tồn hiệu quả và dài hạn. Việc thành lập các OECM phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường và góp phần thúc đẩy bảo tồn nguyên vị đa dạng sinh học. Thể chế hóa các OECM sẽ không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết quốc tế mà còn bảo vệ đa dạng sinh học của các sinh cảnh bị đe dọa như những vùng núi đá vôi độc lập, các vùng đồng cỏ ngập lũ theo mùa, các vùng bãi triều ven biển.
Thời gian qua, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) đã phối hợp cùng với Cục Bảo tồn Thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ TN&MT), Vụ Quản lý Rừng đặc dụng, phòng hộ (Bộ NN&PTNT) tiến hành một nghiên cứu. Kết quả đã xác định được 9 hạng mục các khu vực tiềm năng trở thành OECM. Trong giai đoạn tới, Việt Nam cần xây dựng bản đồ của những khu vực này và đề xuất các cơ chế quản lý và quản trị tổng thể. Với việc công nhận các OECM, Việt Nam sẽ đạt được bước tiến đáng kể đối với hệ thống các khu bảo tồn và bảo vệ. Đây chính là nền tảng để thực hiện các cam kết đầy tham vọng của Việt Nam trong Công ước Đa dạng sinh học và thực hiện Mục tiêu 30x30 tại Việt Nam.
Tổ chức quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên WWF Việt Nam cho rằng, việc thực hiện OECM tại Việt Nam cần được tiếp cận một cách toàn diện, đảm bảo sự tham gia chủ động của cấp cơ sở và cộng đồng địa phương. WWF mong muốn phối hợp với các bên liên quan trong việc lựa chọn, thí điểm một vài mô hình OECM ở khu vực Trung Trường Sơn, đóng góp cho việc hoàn thiện Khung pháp lý và các chính sách cho các OECM của Việt Nam trong những năm tới.
Thông tin từ Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học, Khung Đa dạng sinh học toàn cầu Côn Minh-Montreal đã xác định 23 mục tiêu cần đạt được đến năm 2030, với những chỉ tiêu hết sức tham vọng, đòi hỏi các quốc gia trên thế giới cần có hành động quyết liệt, thậm chí cần có những chuyển đổi căn bản để giảm tác động tới đa dạng sinh học. Bên cạnh những nỗ lực của các quốc gia, việc tạo ra các cơ chế hỗ trợ về nguồn lực cho các nước đang và kém phát triển, bao gồm cả cơ chế tài chính, chuyển giao khoa học- công nghệ và tri thức để hỗ trợ các hành động bảo tồn hết sức quan trọng.
Việt Nam cần xây dựng bản đồ của những khu vực tiềm năng trở thành OECM và đề xuất các cơ chế quản lý và quản trị tổng thể. |
Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược đề ra 5 nhóm nhiệm vụ ưu tiên, bao gồm: Bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái quan trọng; Bảo vệ và phục hồi các loài hoang dã; kiểm soát các hoạt động gây tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học; Lượng giá, sử dụng bền vững Phối hợp hành động thực hiện Khung Đa dạng sinh học toàn cầu; Bảo tồn nguồn gen và chia sẻ lợi ích. “Việc triển khai thành công Chiến lược này sẽ đóng góp vào nỗ lực của Việt Nam thực hiện mục tiêu toàn cầu về đa dạng sinh học.
Thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai một số nhiệm vụ như hoàn thiện khung chính sách, pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật Luật Đa dạng sinh học; tăng cường vai trò năng lực quản lý và thực thi pháp luật; điều tra, quan trắc, xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học. Bộ cũng triển khai tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức của người dân về công tác bảo tồn đa dạng sinh học; xây dựng các mô hình thí điểm bảo tồn, phục hồi, sử dụng bền vững hệ sinh thái, loài; phối hợp các tổ chức quốc tế trong huy động các nguồn tài chính trong nước và quốc tế phục vụ công tác bảo tồn… Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định 3220/QĐ-BTNMT về Kế hoạch thực hiện Quyết định số 149/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; đồng thời nghiên cứu, cụ thể hóa các hành động thực hiện GBF ở cấp quốc gia.
Các nhiệm vụ trọng tâm đã được xác định bao gồm: Xây dựng, hoàn thiện khung chính sách, pháp luật, hướng dẫn kỹ thuật; tăng cường năng lực quản lý và thực thi pháp luật về đa dạng sinh học; điều tra quan trắc và xây dựng cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học; tuyên truyền, nâng cao nhận thức; triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế phục vụ quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học; thực hiện các giải pháp và mô hình thí điểm về bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững hệ sinh thái, loài, nguồn gen và kiểm soát các tác động tới đa dạng sinh học; theo dõi, đánh giá việc tổ chức thực hiện kế hoạch, chiến lược.
Nguồn:Đẩy mạnh công tác bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên