Đòn bẩy quan trọng cho chuyển đổi năng lượng
Chuyển đổi năng lượng xanh đối với ngành giao thông vận tải Nghịch lý trong thúc đẩy tăng trưởng xanh |
Mùa hè năm nay, Việt Nam đối mặt với tình trạng cắt điện trên diện rộng vì thiếu điện do thời tiết khắc nghiệt và tình trạng giảm mức nước sâu của các nhà máy thủy điện.
Thông qua Chỉ thị Số 20/CT-TTg, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà đã lên tiếng thay mặt Thủ tướng kêu gọi toàn dân nỗ lực tiết kiệm ít nhất 2% tổng lượng tiêu thụ điện hàng năm. Nỗ lực này nhằm giảm tỷ lệ mất điện trên toàn hệ thống điện xuống dưới 6% vào năm 2025 và giảm công suất tải cao nhất của hệ thống điện quốc gia ít nhất 1.500MW vào năm 2025 thông qua việc thực hiện chương trình "Quản lý nhu cầu điện (DSM) và điều chỉnh phụ tải (DR)".
Trước đây, Việt Nam đã triển khai một chiến lược tận dụng tài nguyên năng lượng tái tạo. Ban đầu là tập trung vào các nguồn năng lượng thủy điện lớn, sau đó mở rộng sang các dự án thủy điện quy mô nhỏ và từ năm 2018 là các dự án năng lượng mặt trời và gió. Vào cuối năm 2022, tổng công suất lắp đặt của các nhà máy thủy điện đã đạt 22,5GW, còn năng lượng mặt trời và gió đạt khoảng 20,1GW. Việt Nam cũng đặt mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu và đặt tham vọng trở thành trung tâm năng lượng xanh của khu vực.
Dù phải đối mặt với tình trạng cắt điện thường xuyên, chúng ta tự hào đã đảm bảo mọi người đều có tiếp cận năng lượng và cung cấp điện đáng tin cậy cho các nhà sản xuất và công ty hàng đầu trên thế giới đang phát triển tại Việt Nam. Những tập đoàn quốc tế này đã cam kết sử dụng năng lượng tái tạo trong chuỗi cung ứng của họ.
Mặc dù Việt Nam đã có công suất lắp đặt năng lượng mặt trời và gió đáng kể, việc tận dụng hoàn toàn công suất từ những nguồn năng lượng sạch này vẫn gặp khó khăn do hạn chế trong mạng lưới truyền tải và phân phối điện.
Nhằm vượt qua thách thức này và hỗ trợ chuyển đổi năng lượng sạch bền vững, Chính phủ đã đưa ra những quyết định mạnh mẽ trong Kế hoạch phát triển điện VIII (PDP8), nhằm tăng cường nguồn năng lượng sạch, cải thiện mạng lưới truyền tải và củng cố khả năng lưu trữ năng lượng. Mục tiêu của PDP8 là xây dựng một hệ thống điện xanh, bền vững và đảm bảo, có khả năng chống lại tác động của biến đổi khí hậu và cung cấp nguồn điện đáng tin cậy và giá cả phải chăng cho người dân Việt Nam.
Theo kế hoạch này, tỷ lệ nguồn năng lượng tái tạo có thể tăng lên 47% vào năm 2030 nếu các nguồn hỗ trợ quốc tế được triển khai để thúc đẩy sự phát triển của nguồn năng lượng tái tạo. Điều này phản ánh cam kết của Việt Nam và cộng đồng quốc tế trong Thỏa thuận hợp tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JET-P), ký vào tháng 12/2022. Số tiền cam kết là 15,5 tỷ USD, một phần được huy động từ nguồn tài chính công và tài chính tư nhân trong vòng ba đến năm năm tới. Đồng thời, JET-P cũng đặt mục tiêu tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo từ 36% lên 47%.
Đòn bẩy quan trọng
Công nghệ lưu trữ năng lượng, bao gồm hệ thống lưu trữ năng lượng bơm và hệ thống lưu trữ năng lượng pin (BESS), đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp nguồn năng lượng tái tạo vào lưới điện, đảm bảo tính an toàn và tin cậy.
BESS có thể cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng lưới, hàng loạt dịch vụ năng lượng và dịch vụ phụ trợ. Trong khi hệ thống bơm thủy điện có thể cung cấp lưu trữ lâu dài, BESS đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ quản lý lưới phân phối phân tán, cùng với việc nâng cấp và mở rộng mạng lưới truyền tải và phân phối - tất cả đều là yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu năng lượng tái tạo PDP8.
Trong những năm còn lại cho đến 2030, để đạt mục tiêu tỷ lệ 47% năng lượng tái tạo, chúng ta cần đưa vào kế hoạch phát triển điện một lượng lớn hơn 300 MW của hệ thống lưu trữ năng lượng BESS. PDP8 đã nhận thấy điều này và đặc biệt nhấn mạnh rằng giá cả phải hợp lý của BESS là yếu tố quan trọng để mở rộng và tận dụng tối đa khả năng sử dụng BESS trong hệ thống điện.
Trong quá trình đưa hệ thống BESS vào Kế hoạch phát triển điện VIII, Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch hành động và khung chính sách cụ thể để thực hiện và đạt được quy mô mong muốn. Hiện tại, chỉ có một số ít hệ thống BESS sau công tơ nhỏ được các công ty tư nhân thử nghiệm, tuy nhiên, quy định không rõ ràng đã làm chậm tiến trình phát triển các hệ thống BESS kết nối lưới điện, mặc dù chúng đã được pháp luật công nhận thông qua PDP8.
Các dự án thử nghiệm hệ thống BESS kết nối lưới điện có thể được sử dụng bởi Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công thương để xác định các tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, chính sách quy định và pháp lý, cùng với cơ chế tài chính để thu hút đầu tư triển khai quy mô lớn. Thử nghiệm có thể giúp các cơ quan quản lý hiểu rõ hơn về giá trị kỹ thuật và kinh tế cụ thể thông qua việc đánh giá hiệu suất thực tế trong hệ thống điện của Việt Nam, không chỉ dựa trên kinh nghiệm quốc tế.
Đáng nói, Việt Nam cũng đã thành công trong việc sản xuất và xuất khẩu hệ thống BESS ra thị trường quốc tế. Các công ty như VinES, Fluence đã có thành tựu trong việc sản xuất và lắp ráp BESS, và gần đây, hai công ty Trung Quốc đã tiếp cận chính phủ với ý định đầu tư lên đến 900 triệu USD để xây dựng một cơ sở sản xuất BESS tại Việt Nam.
Bài học từ thế giới
Trong khi Việt Nam mới bắt đầu hành trình của mình, Đài Loan và Hàn Quốc đã tiến xa hơn trong việc phát triển BESS.
Đài Loan đã trở thành một trong những thị trường năng lượng lưu trữ sôi động nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhờ cam kết của chính quyền địa phương về năng lượng tái tạo và mục tiêu giảm khí thải net zero. Công ty điện lực nhà nước Taipower của Đài Loan đã đặt mục tiêu đạt 1.000MW BESS trong phạm vi phục vụ của mình vào năm 2025 nhằm hỗ trợ cân bằng lưới điện.
Bà Sunita Dubey, Chuyên gia kỹ thuật Quỹ Liên minh năng lượng toàn cầu cho con người và hành tinh (GEAPP) |
Trong khi đó, Hàn Quốc cũng đang trở thành một quốc gia nổi bật trong thị trường BESS. Họ đang chủ động thúc đẩy phát triển và triển khai công nghệ BESS để cải thiện sự ổn định của lưới điện, quản lý nhu cầu cao điểm và tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo vào hệ thống năng lượng của đất nước. Sự phát triển của thị trường BESS ở Hàn Quốc được thúc đẩy bởi sự vượt trội của ngành sản xuất pin trong nước và chính sách khuyến khích mạnh mẽ từ phía chính phủ.
Ở cả Đài Loan và Hàn Quốc, việc mở rộng quy mô BESS đã bắt đầu bằng các dự án thử nghiệm. Ví dụ, vào năm 2017, Hàn Quốc đã thực hiện ba dự án thử nghiệm đầu tiên tại các trạm biến áp của KEPCO, các khu vực năng lượng tái tạo và các tòa nhà.
Giống như Việt Nam, Ấn Độ cũng đang đặt mục tiêu nâng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo từ 47% lên 50% vào năm 2030. Để cân bằng năng lực đáng kể của các nguồn năng lượng tái tạo, nhu cầu về BESS được dự kiến sẽ tăng đáng kể, với ước tính 9GW vào năm 2026-2027 và 47GW vào năm 2031-2032 trên toàn bộ chuỗi giá trị cung cấp điện, từ phát điện đến truyền tải và phân phối. Trong bối cảnh này, Ấn Độ đã nhận được hỗ trợ ưu đãi từ Liên minh Năng lượng toàn cầu vì nhân loại và hành tinh (GEAPP) cho dự án thử nghiệm BESS 20MWh để đảm bảo khả năng thương mại trước khi triển khai BESS quy mô lưới và kiểm tra tính khả thi về mặt tài chính và công nghệ.
GEAPP Ấn Độ cũng đang lên kế hoạch hỗ trợ đánh giá một danh sách các dự án có công suất khoảng 200 MW với các công ty điện lực phân phối ở khu vực Bắc, Nam và Tây Ấn Độ. Điều này giúp đẩy nhanh tiến trình triển khai và hoàn tất các thỏa thuận tài chính trong khoảng thời gian 18 - 24 tháng tới.
Trong quá trình phát triển mạnh mẽ nguồn cung cấp điện xanh, đáng tin cậy cho các ngành công nghiệp toàn cầu và người dân, Việt Nam không thể tránh khỏi việc sử dụng rộng rãi công nghệ BESS trong hệ thống điện của mình. Xanh hóa lưới điện sẽ đảm bảo an ninh năng lượng và thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ các tập đoàn quốc tế cam kết sử dụng năng lượng tái tạo. GEAPP cam kết hỗ trợ dự án BESS đầu tiên thông qua hợp tác với chính phủ bằng cách cung cấp tài trợ vốn ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm từ Ấn Độ.
(*) Sunita Dubey, Chuyên gia kỹ thuật Quỹ Liên minh năng lượng toàn cầu cho con người và hành tinh (GEAPP)
Nguồn:Đòn bẩy quan trọng cho chuyển đổi năng lượng