Hà Nội: 17°C
Thừa Thiên Huế: 19°C
Hải Phòng: 18°C
Quảng Ninh: 14°C
TP Hồ Chí Minh: 26°C

Lý luận xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và những thách thức đối với Việt Nam

Bối cảnh quốc tế hiện nay cho thấy tính chất phức tạp, đa cực, biến động khó lường về địa chính trị và địa kinh tế đối với mỗi quốc gia đang nỗ lực hội nhập quốc tế sâu và rộng như Việt Nam trong toàn cầu hoá thì lợi ích và chủ quyền kinh tế quốc gia khá nhạy cảm, dễ bị tổn thương bởi những thay đổi về địa chính trị trong địa chiến lược của các nước lớn. Để giảm thiểu tổn hại lợi ích quốc gia trước mỗi cú sốc trong bối cảnh như vậy, thì phải bảo đảm được sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế, giữ vững được chủ quyền kinh tế trong mỗi “cơn cuồng phong” và “địa trấn” về địa chính trị quốc tế. Bài viết bổ sung nhận thức về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong kỷ nguyên phát triển mới từ góc nhìn khoa học kinh tế chính trị Mác-Lênin.

Từ khóa: Nền kinh tế, tính độc lập, tự chủ, chủ quyền kinh tế, thách thức với Việt Nam.

1. Nhận thức về tính độc lập, tự chủ của một nền kinh tế

Những thách thức hết sức hiện thực và khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc ra đặt ra yêu cầu bắt buộc phải xây dựng nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ để vững vàng trước những bất ổn của thế giới hiện thực.

Nhận thức về nền kinh tế độc lập, tự chủ, đến nay, khá đa dạng và phong phú, xuất phát từ cơ sở của nhận thức, ngay cả khi cùng dựa trên một cơ sở lý luận thì nhận thức về vấn đề này cũng không hẳn đã có sự trùng khớp hoàn toàn, vì còn chịu sự chi phối của tính chất cổ điển hay hiện đại. Lý luận kinh tế cổ điển thường tập trung vào cơ sở nền tảng của tính độc lập và tự chủ, trong khi lý luận kinh tế hiện đại chú ý nhiều hơn vào hình thức biểu hiện trên bề mặt đời sống xã hội hiện thực thông qua các tiêu chí và chỉ số phải ánh như mô hình phát triển kinh tế, kiểm soát các nguồn lực quan trọng (tài nguyên khoáng sản, đất, nước, công nghệ, nhân lực), phương thức hoạch định các chính sách phát triển kinh tế. Do đó, tư duy về xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ có sự không đồng nhất về nội hàm và phương thức thực hiện.

Với phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số vấn đề lý luận về xây dựng một nền kinh độc lập, tự chủ dựa trên cơ sở lý luận của kinh tế chính trị Mác-Lênin.

Trước hết, từ góc nhìn dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về hình thái kinh tế – xã hội, có thể thấy rằng, sự độc lập về kinh tế là tiền đề cho tính độc lập về chính trị, vì cơ sở hạ tầng là thứ quyết định kiến trúc thượng tầng, do đó, các quyết sách của hệ thống chính trị với tư cách là sản phẩm của kiến trúc thượng tầng bị chi phối bởi cơ sở vật chất của nó – chính là tiền đề kinh tế. Điều này hàm ý với một quốc gia, nếu chủ quyền kinh tế không giữ được, bị mất đi sự tự chủ và độc lập, phụ thuộc kinh tế vào bên ngoài, thì tất yếu bị chi phối, bị can thiệp về chính trị, các quyết sách về chính trị, kinh tế, xã hội,… sẽ bị chi phối từ bên ngoài.

Mặt khác, một trong những luận điểm cốt lõi trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về phương thức sản xuất là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong khi đó, xét về mặt nội hàm của quan hệ sản xuất thì đó là mối quan hệ giữa người với người trong các khâu của quá trình sản xuất – lưu thông, phân phối và tiêu dùng; mối quan hệ giữa người với người ở đây chính là mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế, trong nền sản xuất xã hội. Do vậy, khi xét trong phạm vi của nền kinh tế thế giới – nền sản xuất toàn cầu thì trong mối quan hệ sản xuất sẽ tồn tại mối quan hệ kinh tế, giữa một quốc gia với tư cách là một chủ thể kinh tế (sản xuất, tiêu dùng) với các chủ thể kinh tế khác. Vì vậy, trong quan hệ kinh tế nếu bị phụ thuộc vào bên ngoài về sản xuất hay tiêu dùng hay cả hai khâu, đều đe dọa đến độc lập, tự chủ trong an ninh kinh tế chủ quyền kinh tế bị đe dọa.

Có được chủ quyền kinh tế thì mới có thể bảo đảm được an ninh kinh tế, mới có được sự độc lập, tự chủ trong các mối quan hệ kinh tế với thế giới bên ngoài, dù là song phương hay đa phương. Nhưng phải hiểu rằng độc lập, tự chủ không tách rời toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và cách mạng công nghiệp 4.0.

Bài học từ lịch sử kinh tế thế giới cho thấy tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế sẽ ngày càng vững chắc khi dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo. Đồng thời cần nhất quán và tiếp tục chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa đối tác, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều hình thức, lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của phát triển đất nước trong từng thời kỳ. Và, quan trọng hơn nữa là tính độc lập, tự chủ về kinh tế luôn phải gắn kết chặt chẽ với bản sắc văn hóa truyền thống, giá trị riêng có để hội nhập kinh tế quốc tế, vì như vậy mới có thể giữ vững được sự độc lập, tự chủ trong tiến trình toàn cầu hóa.

Độc lập, tự chủ chính là yếu tố tối quan trọng trong việc bảo đảm an ninh kinh tế, sự ổn định, bền vững của nền một kinh tế trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó đoán định. Không khó để thấy, bối cảnh thế giới những năm tới đây sẽ còn diễn biến rất phức tạp, bất định và rủi ro cao bởi thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, thiếu lương thực, thiếu năng lượng, xung đột chính trị, cạnh tranh chiến lược, lạm phát, khủng hoảng tài chính và tiền tệ,… cho bất kỳ nước nào.

Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế có ý nghĩa nhiều mặt, sâu sắc, toàn diện, bao trùm, phù hợp với bối cảnh phát triển mới của thời đại mới. Hiện nay sự độc lập, tự chủ của một nền kinh tế không có nghĩa là đóng kín, tự đứng một mình, tự cung – tự cấp và không có quan hệ kinh tế với ai mà là chủ động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước mỗi “cơn cuồng phong”, “địa trấn” tạo ra các cú sốc trong nền kinh tế thế giới. Và như vậy, chỉ có con đường là phải chủ động gia tăng nội lực nhanh chóng, vừa phải khai thác hiệu quả cao nhất ngoại lực. Thêm vào đó, an ninh kinh tế không chỉ giới hạn ở 3 phương diện an ninh lương thực, năng lượng và chuỗi cung ứng mà bao gồm cả các phương diện an ninh thương mại, an ninh tài chính – tiền tệ, an ninh mạng, an ninh y tế (điều rất được chú trọng từ sau dịch bệnh Covid-19 vừa qua)…

Độc lập, tự chủ về kinh tế không thể tách rời với các trụ cột: chính trị – văn hoá, xã hội – môi trường, tài nguyên – an ninh và quốc phòng. Khi xử lý hài hòa mối quan hệ giữa các trụ cột này sẽ giúp ứng phó linh hoạt, phù hợp và giảm thiểu được rủi ro trước những “địa trấn”, “cuồng phong” từ bên ngoài. Tính độc lập, tự chủ không chỉ hiểu một cách đơn giản là việc chủ động làm chủ được mối quan hệ kinh tế với bên ngoài, giảm thiểu tính dễ tổn thương trước các cú sốc, tăng cường tối đa sức mạnh kinh tế nội tại, mà cần nhận thức rõ ở vấn đề trở thành mắt xích quan trọng, tin cậy trong các chuỗi giá trị sản xuất, cung ứng và tiêu dùng toàn cầu.

Đối với Việt Nam, việc xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu, rộng, thực chất, hiệu quả là hết sức cần thiết để kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững. Trên con đường bước vào kỷ nguyên phát triển mới – phồn vinh và hạnh phúc – vươn mình, trỗi dậy thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao, thì về mặt nhận thức luận, ngoài những vấn đề kể trên, còn những vấn đề đặc thù riêng. Và, sự lan tỏa tinh thần độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay có ý nghĩa hết sức to lớn, khơi dậy ý chí tự tôn, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào, khát vọng vươn lên của toàn thể xã hội, từ cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức và cơ quan đoàn thể và Nhân dân. Tùy theo trình độ, lĩnh vực, nhận thức và năng lực hành động cũng như tiềm năng mà tinh thần này sẽ được vận dụng sáng tạo, thông qua những hành động cần thiết và khả thi.

Là một nước đang phát triển, trình độ sản xuất của nền kinh tế chưa thuộc nhóm 20 quốc gia đứng đầu thế giới về qui mô GDP, năng suất lao động và trình độ sử dụng vốn còn thấp, qui mô thị trường nội địa theo dân số và sức tiêu dùng không lớn, trong khi độ mở của nền kinh tế bằng khoảng 2 lần GDP năm1. Do vậy, để có nền kinh tế độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng thì trước hết phải ổn định và vững mạnh về các mặt quan trọng, sống còn, đó là chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và phải duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, để thúc đẩy năng lực sản xuất và phát triển kinh tế – xã hội. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều thông điệp về nâng cao hơn nữa chất lượng phát triển qua việc nhanh chóng thực hiện công cuộc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi sạch, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất.

Cần phải nắm vững các định hướng lớn trong tiến trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tử chủ trong đó, bao gồm: (1) Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) với nội hàm là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, gần dân và sát dân; (2) Tạo dựng nền dân chủ XHCN – lắng nghe dân, hiểu dân để phục vụ dân tốt nhất; (3) Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong điều kiện là nước đang phát triển với nền kinh tế đang trong tiến trình chuyển đổi và với quan điểm xuyên suốt là: lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực và nguồn lực phát triển, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần và trong hội nhập quốc tế thì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hiệp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi.

Ngoài ra, cũng cần nhận thức rõ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; tăng cường, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu chiến lược, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đất nước, của công dân trên trường quốc tế. Trong hội nhập quốc tế, cần nhận thức rõ phục vụ cho sự phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm của mọi hoạt động đối ngoại trên mọi phương diện, góp phần vào xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả.

Bên cạnh đó, cần làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác, tăng cường hơn nữa sự tin cậy và chân thành; gia tăng hơn nữa sự gắn kết lợi ích quốc gia thực chất. Cần xác định được trọng tâm hợp tác đối với từng đối tác trong quan hệ, ví như với các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – là các nước láng giềng, thì cần chú trọng tăng cường kết nối các nền kinh tế, củng cố khối đại đoàn kết chung, xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh thực chất để có thể mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp của mỗi nước.

Tranh thủ ngoại lực là điều rất quan trọng, cần thiết để làm sao đáp ứng được yêu cầu cao hơn của đất nước trong tiến trình phát triển mới; cần khai thác hiệu quả để thu được những lợi ích trong hợp tác quốc tế qua những hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, như: VKFTA, VJFTA, EVFTA, CPTPP, RCEP2

Để xây dựng được nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập quốc tế thì cần phải nỗ lực cao nhất trong: nâng cao trình độ và hiệu quả của ngành Giáo dục và đào tạo; nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ; sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức và nhân tài, bằng chiến lược, kế hoạch và phương thức phù hợp, hiệu quả.

Một trong những điều quan trọng nhất trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ là phải bảo đảm thực hiện nguyên tắc “6 tự”, gồm: tự tôn – tự chủ – tự tin – tự lực – tự cường – tự hào, có nghĩa xây dựng được một nền kinh tế có thể vận hành bằng năng lực nội tại của đất nước, dựa vào các nguồn lực và công nghệ của đất nước trong đó phải bao gồm lực lượng lao động sáng tạo, có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng thành thục. Đặc biệt, phải xác định “6 tự”, trong đó, tự chủ là trọng tâm phải là nguyên tắc cần triệt để thấm nhuần trong nhận thức, tuy duy và hành động của các cấp lãnh đạo, đến từng cán bộ, công chức, doanh nhân, người lao động và người dân trong xã hội vào mọi thời điểm. Nói cách khác, nguyên tắc “6 tự” phải trở thành kim chỉ nam xuyên suốt trong từ nhận thức đến hành động trong xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội.

2. Một số đặc điểm cơ bản của một nền kinh tế độc lập, tự chủ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ là một nền kinh tế có khả năng thích ứng cao, nội tại vững chắc, ít bị tổn thương trước những biến động bất lợi của khu vực và quốc tế, trong mọi tình huống đều duy trì được các hoạt động bình thường của đất nước, bảo đảm đủ mức cơ bản cho đời sống của toàn thể nhân dân và phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh3.

Nền kinh tế đó thể hiện cho thấy được tính độc lập và tự chủ trong xây dựng thể chế kinh tế của quốc gia; trong tổ chức triển khai thực hiện sản xuất – lưu thông, phân phối và tiêu dùng xã hội; trong hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, không bị lệ thuộc hay bị động, phù hợp và tuân thủ đúng các quy định của tiến trình toàn cầu hóa và khu vực hóa.

Nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ sẽ chủ động xác lập cho mình một vị thế phù hợp trong nền kinh tế thế giới, tham gia vào việc kiến tạo nền kinh tế thế giới ở phương diện sản xuất – lưu thống, phân phối và tiêu dùng theo chuỗi giá trị và mạng cung ứng quốc tế, nhờ biết vận dụng sáng tạo các quy định, cam kết quốc tế sao cho phù hợp với điều kiện và năng lực của đất nước. Một đặc điểm nữa của nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ là có tiềm lực kinh tế – cơ sở vật chất – đủ vững mạnh, thể hiện không những ở năng lực chống chịu, trụ vững trước các cú sốc do “địa trấn” và “cuồng phong” từ bên ngoài, phục hồi và phát triển mà còn ở khả năng cạnh tranh của các ngành/lĩnh vực kinh tế, của doanh nghiệp và các sản phẩm quốc gia.

Một nền kinh tế đạt được sự độc lập, tự chủ về kinh tế sẽ có được đội ngũ công chức, doanh nhân, chuyên gia,… đủ lớn được gọi là nhân tài của đất nước, có năng lực quản lý, điều hành, tự lực tối đa trong phát triển khoa học – công nghệ, trong quản trị quốc gia và sản xuất – kinh doanh hiệu quả. Đội ngũ nhân tài này là nhân tố then chốt, quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đặc biệt, trong kỷ nguyên số và trí tuệ nhân tạo, nhân tài khoa học – công nghệ, có vai trò hết sức quan trọng, quyết định cho củng cố, tăng cường nền tảng vật liệu, công nghệ quốc gia và cho mục tiêu đạt được sự phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững và bao trùm.

3. Những thách thức đối với Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, là một nước đang phát triển, nền kinh tế có quy mô GDP ở mức 506,43 tỷ USD và GDP bình quân đầu người 4.990 USD, có độ mở kinh tế lớn và sự hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng: năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, xuất siêu 24,77 tỷ USD; giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 thế giới; vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 25,35 tỷ USD; có lực lượng lao động trẻ nhưng khoảng 70% không được đào tạo, quy mô thị trường nội địa trên 100 triệu người với GDP bình quân chưa tới 5.000 USD/người thì việc lựa chọn xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ phải đối mặt với những thách thức không nhỏ4.

Thứ nhất, trình độ sản xuất còn thấp và phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, sức cạnh tranh quốc gia thấp.

Trình độ sản xuất của Việt Nam còn thấp do lực lượng sản xuất chưa phát triển, trình độ công nghệ tụt hậu khá xã so với các nước phát triển, năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất không cao, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu. Tăng trưởng kinh tế đạt được chủ yếu nhờ vào tăng thêm các nguồn lực đầu vào vì mô hình tăng trưởng GDP theo chiều rộng, tiến trình chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu rất chậm.

Sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố đầu vào nhập khẩu từ nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị, chi phí các yếu tố nhập khẩu chiếm tỷ trọng hơn 40% tổng chi phí sản xuất của nền kinh tế. Và, tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo lên đến gần 51%5. Trong khi, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ không phát triển đủ mạnh nên chưa thể tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nguyên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất phụ thuộc vào một vài thị trường đã mang đến rủi ro cao, ví như Trung Quốc là thị trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hằng năm chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam, tổng giá trị nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất hằng năm6.

Sức cạnh tranh của nền kinh tế ở phương diện chi phí sản xuất xã hội, thương hiệu sản phẩm quốc gia còn thấp hơn so với của các nước phát triển và một số nước trong cùng khu vực.

Thứ hai, rủi ro hoạt động mua bán, sáp nhập (M&A) và đầu tư nước ngoài đẩy nền kinh tế ngày càng xa sự độc lập, tự chủ.

Thời gian qua, các nhà đầu tư nước ngoài rất ưa thích loại hình M&A, vì đầu tư theo loại hình này nhanh tiếp cận đến mục tiêu lợi ích hơn so với loại hình đầu tư trực tiếp (FDI) thành lập pháp nhân mới. Việc gia tăng M&A này khiến cho quyền sở hữu các tổ chức kinh tế trong nước bị rơi vào tay các nhà đầu tư nước ngoài, làm cho nền kinh tế quốc gia bị phụ thuộc nước ngoài.

Thực tế từ khi đại dịch Covid-19 diễn ra, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng thì chính phủ các nước đã nhanh chóng thực hiện các giải pháp bảo vệ sản xuất trong nước và doanh nghiệp tránh bị phá sản do sự thâu tóm của các nhà đầu tư nước ngoài. Với Việt Nam, những năm qua, vị thế quốc gia trong thương mại quốc tế được nâng cao nhưng hoạt động thương mại quốc tế vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI. Ví như năm 2022, theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực FDI chiếm 74,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Điều này cho thấy thương mại quốc tế của nước ta rất dễ bị tổn thương mỗi khi có cú sốc từ bên ngoài. Và, quan sát từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta có xu hướng tập trung vào loại hình M&A với tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh qua các năm7.

Thứ ba, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội

Thực trạng của thị trường lao động nước ta đang cho thấy hạn chế rất đáng lo ngại về cả cung và cầu ở phương diện đáp ứng được yêu cầu của một thị trường lao động hiện đại và hội nhập trong khi quy mô lực lượng lao động tại năm 2024 là 53 triệu người với mức tham gia lực lượng lao động là 68,9% nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chỉ chiếm 28,3%, làm cho chất lượng lao động không đáp ứng nhu cầu thực tế của nền kinh tế; và lao động có việc làm là 51,9 triệu người. Về cơ cấu xét theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm trong khu vực nông-lâm nghiệp và thuỷ sản còn khá cao, 13,7 triệu người, chiếm 26,5%; công nghiệp và xây dựng là 17,4 triệu người, chiếm 33,4%; khu vực dịch vụ là 20,8 triệu người, chiếm 40,1%. Thêm nữa, số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) chiếm tới 64,6% trong đó tại thành thị là 49,2%; ở nông thôn là 74,1%; và xét theo giới tính thì ở nam là 67,6%, và nữ là 61,0%8.

Xét về tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động cả nước là 1,84%, trong đó tại khu vực thành thị là 1,28%, còn tại khu vực nông thôn là 2,20%. Và, xét về thất nghiệp trong độ tuổi lao động cả nước là 2,24%, trong đó thành thị là 2,53% và nông thôn là 2,05%, nhưng nếu xét thất nghiệp của thanh niên từ 15-24 tuổi, cả nước lên tới 7,83% trong đó thành thị là 9,35% vả nông thôn là 6,97%. Thực trạng này cho thấy tính không bền vững và dễ bị tổn thương về việc làm, không hợp lý về cơ cấu và sự yếu kém về chất lượng, của lực lượng lao động hiện tại ở Việt Nam9.

Hạn chế lớn nhất đối với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam là hạn chế về lực lượng chuyên gia khoa học – công nghệ và quản trị kinh tế – xã hội. Hiện, số lượng và trình độ của đội ngũ này, tuy đã tăng lên nhưng còn thấp khi so với Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản hay Singapore khi tính trên một vạn dân. Chất lượng đội ngũ này còn hạn chế lớn vì thiếu các chuyên gia giỏi, đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ cao. Thêm nữa, tinh thần hợp tác và kỹ năng làm việc nhóm còn yếu do đó rất khó lập được các nhóm nghiên cứu mạnh và nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững. Trong khi đó, nhân lực khoa học – công nghệ phân bố không phù hợp, một số không nhỏ sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý hơn là cho công việc chuyên môn cần thiết.

Bên cạnh đó, chưa có chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài quốc gia. Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vậy nên, trong Văn kiện Đại hội Đảng liên tục các nhiệm kỳ vừa qua đều khẳng định sự tối cần thiết phải đào tạo, thực hiện chính sách trọng dụng người tài, đó là các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành,… và thực sự tôn vinh các doanh nhân có đủ tâm, tầm, tài, thành đạt, có đóng góp nhiều cho đất nước. Có thể thấy tại Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh việc xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; và tại Luật Cán bộ, công chức đã quy định: Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng. Tuy vậy, chính sách hiện có không tạo ra được động lực đủ mạnh cho việc phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo của nhân tài nước nhà; không có chính sách đặc thù, phù hợp cho việc này, nhất là cho nhân tài đang ở nước ngoài khát khao góp sức cho quê hương.

Thứ tư, hạ tầng kinh tế – xã hội cho một nền kinh tế độc lập, tự chủ còn chưa được hình thành đầy đủ.

Đánh giá chung của quốc tế và Việt Nam cho thấy hạ tầng kinh tế – xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Đất nước. Nền kinh tế độc lập, tự chủ đòi hỏi mức độ hoàn chỉnh về hạ tầng về y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, văn hoá, công nghệ thông tin, môi trường, năng lượng và cho sáng tạo cho phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, thực tế Việt Nam hiện chưa đạt được mục tiêu này. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội thiếu tính đồng bộ, thiếu tính kết nối liên vùng và các lĩnh vực, làm giảm hiệu quả khai thác trong các lĩnh vực giao thông, điện, thủy lợi, đô thị và chất lượng không cao.

Hạ tầng xã hội hiện không đáp ứng được yêu cầu bảo đảm cung cấp đủ các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao trong khi hạ tầng về môi trường chưa được quan tâm đúng mức, nhất là ở khu vực nông thôn. Nguyên nhân chính của tình trạng này nằm ở nhận thức, tư duy và năng lực của hệ thống tổ chức thực hiện, do đó, xuất hiện tình trạng: cải cách thể chế thiếu đồng bộ, chậm/không ban hành chính sách phù hợp nên cơ chế chính sách không theo kịp với yêu cầu thực tiễn về huy động các nguồn lực vào phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội (hạ tầng số, đô thị, giao thông công cộng, hợp tác công tư…)10. Trong tổ chức thực hiện, các bộ, ngành, địa phương không quan tâm đúng mức đến các dự án hạ tầng trọng điểm ở việc bố trí đủ vốn, tính liên thông, khả năng tích hợp, đồng bộ, thống nhất và tầm nhìn dài hạn; công tác lập quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội thiếu tầm nhìn dài hạn, hạn chế tính liên vùng, liên tỉnh; năng lực của chủ thể tham gia thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát, quản lý đầu tư…

Thứ năm, năng lực khai thác hiệu quả nhất các quan hệ kinh tế quốc tế đã xác lập bằng các thoả thuận thương mại tự do song phương và đa phương (FTAs) và quan hệ đầu tư không thực sự cao. Không gian phát triển với những cơ hội từ quan hệ kinh tế với trên 226 nước, 17 FTA ký kết với 62 nước11, về thị trường quốc tế rộng lớn, năng lực và trình độ sản xuất cao đã chưa được khai thác tối ưu cho xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thách thức trong việc nâng cao năng lực này là không nhỏ, muốn vượt qua phải thực hiện đồng bộ, nhất quán các giải pháp khắc phục triệt để các vấn đề thuộc về thể chế, chính sách, môi trường đầu tư kinh doanh, hạ tầng kinh tế – xã hội và chất lượng của lực lượng lao động và tổ chức bộ máy quản trị quốc gia về kinh tế – xã hội.

Kết luận

Việc xây dựng thành công nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ chỉ trong những năm tới có thể đạt được khi biết phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí tự tôn, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường và tự hào dân tộc; chủ động, tích cực nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy tối đa nội lực với nguồn lực con người quan trọng nhất và khai thác hiệu quả ngoại lực; sự đồng thuận của nhân dân; lãnh đạo các cấp và mỗi người dân đều luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo, kiên cường vượt khó, kiên định mục tiêu cùng với sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng, sự điều hành chủ động, linh hoạt và thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp của Chính phủ, sự đồng hành trách nhiệm của Quốc hội Việt Nam.

Chú thích:

1. Kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động hội nhập giúp đất nước phát triển bền vững và bao trùm hơn. https://baochinhphu.vn/kinh-te-doc-lap-tu-chu-gan-voi-chu-dong-hoi-nhap-giup-dat-nuoc-phat-trien-ben-vung-hon-102230111084744363.htm.

2, 4. Nền kinh tế Việt Nam đã khẳng định sự phục hồi rõ nét, là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trên thế giới. https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2025-1-8/Nen-kinh-te-Viet-Nam-da-khang-dinh-su-phuc-hoi-ro-w08tu5.aspx

3, 5, 6, 7, 8, 9. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thổi bùng khát vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. https://baochinhphu.vn/xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-thoi-bung-khat-vong-viet-nam-hung-cuong-phon-vinh-hanh-phuc-10223030217202111.htm

10. Kết cấu hạ tầng phải đi trước, mở ra không gian phát triển mới. https://baochinhphu.vn/ket-cau-ha-tang-phai-di-truoc-mo-ra-khong-gian-phat-trien-moi-102230414153203696.htm

11. Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 11/2018. https://trungtamwto.vn/thong-ke/12065-tong-hop-cac-fta-cua-viet-nam-tinh-den-thang-112018.

Nguồn: Lý luận xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và những thách thức đối với Việt Nam

TS. Vũ Ngọc Thanh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Xuất khẩu chuối của Việt Nam hoàn toàn có thể chạm mốc 1 tỷ USD

Xuất khẩu chuối của Việt Nam hoàn toàn có thể chạm mốc 1 tỷ USD
Chuối hiện là cây ăn trái chủ lực, đồng thời nằm trong nhóm trái cây xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam.

Cà Mau hoàn thiện hạ tầng phát triển ngành công nghiệp môi trường

Cà Mau hoàn thiện hạ tầng phát triển ngành công nghiệp môi trường
Tỉnh Cà Mau huy động sự tham gia của các cấp, ngành, tổ chức, doanh nghiệp và người dân trong đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ môi trường; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp công nghiệp môi trường trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này.

Đặc sắc Ngày của Phở 2025 - lần thứ 9

Đặc sắc Ngày của Phở 2025 - lần thứ 9
Ngày của Phở 2025 – lần thứ 9 với chủ đề “Nâng tầm gạo Việt - Lan tỏa năm châu” đang diễn ra Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) một lần nữa quảng bá, nâng tầm món ăn phở nói riêng và văn hóa ẩm thực độc đáo Việt Nam nói chung ra cộng đồng quốc tế.

Khánh Hoà đề xuất đầu tư gần 2.000 tỷ đồng xây kênh thoát lũ ở Nha Trang

Khánh Hoà đề xuất đầu tư gần 2.000 tỷ đồng xây kênh thoát lũ ở Nha Trang
Nhằm tăng khả năng tiêu thoát nước, giảm ngập úng và ứng phó với tình trạng mưa lũ ngày càng phức tạp, Cơ quan chức năng ở Khánh Hòa đề xuất đầu tư gần 2.000 tỷ đồng xây dựng kênh thoát lũ tại Nha Trang.

Đà Nẵng nâng tầm dược liệu thông qua liên kết chuỗi giá trị

Đà Nẵng nâng tầm dược liệu thông qua liên kết chuỗi giá trị
Nhằm phát triển ngành dược liệu hiệu quả, TP. Đà Nẵng chú trọng xây dựng các mô hình liên kết chuỗi giá trị, gắn vùng nguyên liệu với doanh nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Qua đó nâng cao giá trị kinh tế và sức cạnh tranh của các sản phẩm dược liệu trên toàn tỉnh.