Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước
Hậu Giang: Công tác dân vận tạo nên sự đồng thuận, phát triển Tây Ninh: Thăm, tặng quà lực lượng tham gia công tác dân vận tại huyện Tân Biên |
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi người dân sống trong khu vực dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột _Ảnh: TTXVN |
Về sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn luôn đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của nhân dân là vô địch; muốn lãnh đạo cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, cách mạng muốn thắng lợi phải được đông đảo nhân dân ủng hộ. V.I. Lê-nin khẳng định: “Đối với đảng cộng sản hiện còn yếu về số lượng, với tư cách là đội tiền phong của giai cấp công nhân đang lãnh đạo một nước rộng mênh mông, đang thực hiện (lúc này chưa có sự ủng hộ trực tiếp của các nước tiên tiến hơn) bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(1).
Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân dân, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt, được hình thành do đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng vừa là người lãnh đạo, cầm quyền, vừa là người phục vụ nhân dân, còn nhân dân tự giác đi theo Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra./ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2); Người nói: “Nước lấy dân làm gốc”(3), “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4), “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”(5). Như vậy, dân phải làm chủ và có quyền làm chủ; bởi lẽ, nếu dân không được làm chủ thì dân chủ chỉ là hình thức. Phát huy truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của ông cha, tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đưa ra quan điểm hết sức đúng đắn, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng rút ra 5 bài học kinh nghiệm, nhất là bài học: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6). Trong 5 quan điểm chỉ đạo, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(7) và trong 6 nhiệm vụ trọng tâm ở nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, có 3 nhiệm vụ đề cập đến phát huy vai trò của nhân dân: “Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(8), “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân”(9).
Gần 40 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng đã phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng đánh giá rất rõ các thành tựu đó: “Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10).
Kết quả, hạn chế về công tác dân vận thời gian qua
Về kết quả của công tác dân vận
Đánh giá khái quát ưu điểm công tác dân vận thời gian qua, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Công tác dân vận được chú trọng và tiếp tục đổi mới; quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể của công cuộc đổi mới được nhận thức và thực hiện ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn; mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường. Nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và hệ thống chính trị được nâng cao; coi trọng việc lắng nghe, nắm tình hình và giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, những vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”(11). Trên thực tế, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác dân vận được đổi mới. Đảng đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết về công tác dân vận, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VI (tháng 3-1990), “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (tháng 6-2013), về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” để lãnh đạo, tập hợp các tầng lớp nhân dân; đồng thời, Đảng có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hiện các văn kiện của Đảng, cùng Quy chế Dân chủ ở cơ sở, đồng thời với việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan, công tác dân vận của các cơ quan nhà nước đạt được nhiều kết quả tích cực; việc tiếp công dân, đối thoại với nhân dân của người đứng đầu cấp ủy được thực hiện nền nếp, tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, tăng cường hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh. Các hình thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ngày càng phong phú, đa dạng và hiệu quả hơn. Nhiều phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào “Dân vận khéo”, được đẩy mạnh, gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết hiệu quả nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân.
Về hạn chế và nguyên nhân
Thời gian qua, công tác dân vận có chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn một số hạn chế cần nhận diện và tiếp tục khắc phục. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận, như phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” còn chưa phù hợp với từng đối tượng quần chúng, các loại hình ở cơ sở. Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chưa coi trọng công tác vận động quần chúng và chưa chú trọng đưa nguyện vọng hợp pháp, lợi ích chính đáng của nhân dân làm nội dung chủ yếu trong lãnh đạo, chỉ đạo của mình. Việc thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp có nơi còn mang tính hình thức. Công tác đánh giá và dự báo tình hình, nắm bắt tư tưởng trong các tầng lớp nhân dân có nơi còn thiếu chính xác, chưa kịp thời; còn để xảy ra “điểm nóng” hoặc khiếu kiện phức tạp kéo dài. Công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa được quan tâm đúng mức; chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát huy tốt vai trò của các cơ quan truyền thông, mạng xã hội, mở rộng các kênh đối thoại trực tiếp với nhân dân. Việc lựa chọn nội dung và cách thức vận động, tập hợp đoàn viên, hội viên ở một số nơi thiếu sáng tạo, chưa sát thực tế, nên hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền gương điển hình là tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng có lúc chưa được quan tâm đúng mức. Việc tiến hành sơ kết, tổng kết theo quy định của Trung ương có nơi làm chậm hoặc làm hình thức, chiếu lệ.
Những hạn chế về công tác dân vận có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, cụ thể: 1- Một số cấp ủy, chính quyền, chưa nhận thức đầy đủ, rõ ràng vị trí, vai trò của công tác dân vận trong tình hình mới; 2- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức đảng, nhất là ở cơ sở còn hạn chế; 3- Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, vai trò tiên phong, nòng cốt còn mờ nhạt, cá biệt còn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền; 4- Việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là về phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn chậm, hiệu quả thấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng giúp đồng bào thu hoạch lúa_Ảnh: TTXVN |
Một số nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận để tiếp tục phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới
Một là, các cấp ủy tiếp tục lãnh đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về công tác dân vận của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục quán triệt các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Trung ương về công tác dân vận đến tổ chức đảng, đảng viên; đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Đảng tiếp tục lãnh đạo tập trung thực hiện tốt công tác dân vận.
Cơ quan nhà nước cần có phương pháp, cách thức, hình thức thực hiện hiệu quả, nhằm phát huy vai trò của nhân dân tham gia trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc. Từng bước tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp để phát huy trí tuệ tập thể, sự đóng góp ý kiến quan trọng, quý báu của các tầng lớp nhân dân; sớm hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại với công dân, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân kịp thời, đúng pháp luật. Hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ kết hợp với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; quan tâm công tác tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở cơ quan nhà nước các cấp. Phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ thường xuyên tiếp xúc, làm việc với nhân dân, cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các ngành, các cấp, các đơn vị, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, Kiên quyết phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân; đồng thời, chống các khuynh hướng mị dân, kích động nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền và tổ chức thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, thường xuyên lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để có biện pháp giải quyết kịp thời. Tập trung xử lý dứt điểm các vấn đề “nóng”, bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, không để các vụ khiếu kiện phức tạp kéo dài, các “điểm nóng” về an ninh, trật tự xảy ra ở cơ quan, đơn vị, cơ sở.
Ba là, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các thành viên, đoàn viên, hội viên, theo đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ các cấp thật sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác dân vận. Quan tâm việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể yên tâm công tác; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, hướng mạnh về cơ sở; đa dạng hóa hình thức tập hợp, vận động đoàn viên, hội viên; làm tham mưu cho cấp ủy, là nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, tình hình nhân dân; phát huy dân chủ, ý thức trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc, nhất quán nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động theo pháp luật khi phát triển các tổ chức quần chúng. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng, thường xuyên bồi dưỡng đoàn viên, hội viên ưu tú, tiêu biểu cả đức và tài để giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước; đồng thời, quan tâm xây dựng, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng, kể cả đồng bào ta ở nước ngoài hướng về xây dựng đất nước.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với các quan điểm, luận điệu sai trái.
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ phương hướng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(12). Đại hội đặt ra yêu cầu: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(13). Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đồng thời, tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng; can thiệp, cản trở việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thời gian vừa qua được nhân dân đồng tình, ủng hộ; qua đó, tăng cường niềm tin, khơi dậy và phát huy sức mạnh của nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trước tình hình và điều kiện mới, các thế lực thù địch có nhiều hoạt động chống phá hết sức tinh vi, thâm độc, nhằm chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát huy “thế trận lòng dân”, quyết tâm, quyết liệt đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trong tình hình mới.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát huy sức mạnh của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.
Trong thời gian tới, công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục góp phần tích cực vận động, tập hợp được các tầng lớp nhân dân trong cả hệ thống chính trị thành lực lượng to lớn tham gia các phong trào thi đua yêu nước, theo tinh thần “thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua”. Các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt đầy đủ lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động phong trào thi đua sát với thực tế của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và phù hợp với từng đối tượng. Trên cơ sở tổng kết phong trào thi đua “Dân vận khéo” và các phong trào thi đua do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát động thời gian qua để rút kinh nghiệm, qua đó thực hiện nhiệm vụ chính trị tốt hơn, hiệu quả hơn trong thời gian tới. Các phong trào thi đua cần thiết thực, tránh hình thức, lãng phí, tốn kém; lấy hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội làm thước đo đánh giá từng phong trào thi đua; thường xuyên tổ chức theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và khen thưởng kịp thời. Trong giai đoạn phát triển mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần hướng phong trào thi đua vào khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, đoàn viên, hội viên thi đua sản xuất, kinh doanh để làm giàu chính đáng. Trên cơ sở đó, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách an sinh xã hội, phát huy tối đa sức mạnh của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đất nước trong tình hình mới.
Sáu là, cả hệ thống chính trị phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong thực hiện quy chế công tác dân vận.
Ngày 30-7-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 23-QĐ/TW, “Về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị” nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ về công tác dân vận trong tình hình mới. Quy chế đã nêu rõ trách nhiệm lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Dân vận Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, các ban đảng ở Trung ương, đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp, trách nhiệm của lực lượng vũ trang, trách nhiệm của chính quyền các cấp, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở trách nhiệm về công tác dân vận được Bộ Chính trị giao, các tổ chức trong hệ thống chính trị nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt để công tác dân vận có chuyển biến tích cực, rõ rệt. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở từng cấp. Cấp ủy các cấp cần thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế; đồng thời, định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời theo quy định của Trung ương./.
----------------------------
(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 44, tr. 426
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 232
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 501
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 434
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 382
(6), (7), (8), (9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 96 - 97, 110, 200, 202, 103 – 104
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 201 - 202
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 229 - 230
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 180