Nghiên cứu công nghệ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp
Nghiên cứu: Biến đổi khí hậu khiến thực vật khó quang hợp hơn Nghiên cứu, phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng, môi trường |
Ngày 7/6/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam” nhằm tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050. Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế tuần hoàn sẽ hình thành quá trình sản xuất khép kín thông qua ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào tái chế các chất thải, phụ phẩm để làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, từ đó tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, an toàn, thân thiện môi trường, hướng tới nền nông nghiệp xanh trong tương lai gần.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng khối lượng phụ phẩm theo lý thuyết ở nước ta năm 2020 là khoảng 156,8 triệu tấn, gồm: 88,9 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt (chiếm 56,7%), 61,4 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi (chiếm 39,1%), 5,5 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp (chiếm 3,5%) và khoảng gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản (10,6%). Đây là nguồn tài nguyên lớn để phát triển nông nghiệp tuần hoàn.
Việc phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học, quy trình sản xuất nông nghiệp tiên tiến nhằm mục đích giảm thiểu đầu vào, giảm sử dụng nguyên liệu thô; tái chế tại chỗ các chất thải, phụ phẩm để làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất, chế biến; hình thành chu trình sản xuất nông, lâm, thuỷ sản khép kín theo chuỗi; thông qua quá trình này, không chỉ tạo ra được các sản phẩm chất lượng cao, an toàn mà còn giảm thiểu tối đa lượng chất thải ra môi trường, đồng thời góp phần nâng cao nhận thức của người dân về tái sử dụng phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp gắn liền với việc bảo vệ môi trường... là mục tiêu tại dự thảo Đề án Phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp đến năm 2030 của Bộ NN&PTNT.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Nghiên cứu hoàn chỉnh và đưa vào áp dụng các công nghệ tái chế và tái sử dụng các phụ phẩm trong chu trình sản xuất nông, lâm, thuỷ sản theo chuỗi khép kín. Phấn đấu 50% phụ phẩm trồng trọt và chất thải chăn nuôi, 100% nước và 80% chất thải trong nuôi trồng thủy sản, 100% phụ phẩm của công nghiệp chế biến nông sản được tái sử dụng cho sản xuất tuần hoàn. Phấn đấu 50% các trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản được tiếp cận và ứng dụng các công nghệ, quy trình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn. Tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại nông lâm thủy sản, hợp tác xã, trang trại ứng dụng các mô hình sản xuất tuần hoàn đạt 25%.
Ít nhất 50% nhiệm vụ khoa học công nghệ thuộc các chương trình khoa học và công nghệ các cấp từ trung ương đến địa phương được đầu tư nghiên cứu phát triển các công nghệ, quy trình sản xuất nông, lâm, thuỷ sản phải đáp ứng các tiêu chí giúp giảm đầu vào, tái sử dụng phụ phẩm, phát thải thấp và bền vững với môi trường.
Lĩnh vực trồng trọt, ưu tiên nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng có giá trị thương mại đồng thời kháng bệnh, chống chịu. |
Để thực hiện mục tiêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất 8 nhiệm vụ, trong đó chú trọng phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học, quy trình sản xuất tiên tiến trong phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn đối với sản xuất nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất: Tập trung nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và lộ trình hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin ngành nông nghiệp để có thể sử dụng các ứng dụng, giải pháp công nghệ thông tin, công nghệ số gắn với mô hình sản xuất nông nghiệp tuần hoàn; phát triển công nghệ chuyển đổi số phục vụ cho thực hiện kinh tế tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp phù hợp với từng loại mô hình kinh tế tuần hoàn của từng lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy hải sản, lâm nghiệp.
Bên cạnh đó, tập trung nghiên cứu phát triển, tạo ra các công nghệ, quy trình sản xuất khép kín theo chuỗi, vật tư đầu vào (giống kháng bệnh, chống chịu; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nguồn gốc sinh học; chế phẩm sinh học phòng trừ bệnh, dinh dưỡng đất, thức ăn chăn nuôi, thuỷ sản; chế phẩm xử lý môi trường trong sản xuất nông nghiệp, tái chế, xử lý phụ phẩm; chế phẩm trong bảo quản chế biến đảm bảo an toàn thực phẩm…), giảm sử dụng tài nguyên đầu vào, kéo dài vòng đời sản phẩm, tái sử dụng và tái chế chất thải.
Cụ thể, đối với lĩnh vực trồng trọt, ưu tiên nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng có giá trị thương mại đồng thời kháng bệnh, chống chịu; nghiên cứu làm chủ quy trình sản xuất các chế phẩm sinh học, phân bón sinh học, thuốc bảo vệ thực vật sinh học, chế phẩm phục hồi độ phì đất, dinh dưỡng đất, chế phẩm bảo quản, chế biến, tái chế phụ phẩm trong sản xuất trồng trọt; quy trình canh tác khép kín giảm phát thải phù hợp với đặc thù vùng sinh thái và quy mô sản xuất.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, ưu tiên nghiên cứu công nghệ chọn tạo giống vật nuôi có năng suất, chất lượng đồng thời chống chịu bệnh, hiệu quả sử dụng thức ăn chăn nuôi cao; nghiên cứu làm chủ công nghệ về sản xuất thức ăn chăn nuôi, các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung thức ăn chăn nuôi, các chế phẩm sinh học xử lý môi trường chăn nuôi; nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ chăn nuôi tuần hoàn không chất thải; quy trình thu gom, xử lý chất thải lỏng, chất thải rắn để hình thành ngành công nghiệp dinh dưỡng hữu cơ cho canh tác cây trồng. Ưu tiên nghiên cứu, làm chủ công nghệ chế tạo các vaccine thế hệ mới, kiểm soát dịch bệnh không tác động đến sức khoẻ con người và môi trường.
Tại lĩnh vực thủy sản, ưu tiên nghiên cứu công nghệ chọn tạo giống thuỷ sản kháng bệnh, hiệu quả sử dụng thức ăn cao; nghiên cứu làm chủ công nghệ về sản xuất thức ăn thuỷ sản, các sản phẩm dinh dưỡng bổ sung thức ăn thuỷ sản, các chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi; nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ nuôi tuần hoàn nguồn nước, không chất thải; quy trình thu gom, xử lý tái xử dụng nước nuôi khép kín. Ưu tiên nghiên cứu, làm chủ công nghệ chế tạo các vaccine, chế phẩm thế hệ mới, nguồn gốc thực vật, kiểm soát dịch bệnh không tác động đến sức khoẻ con người và môi trường.
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, tập trung nghiên cứu chọn tạo giống cây lâm nghiệp chống chịu bệnh, điều kiện bất thuận của môi trường để phục vụ trồng rừng thâm canh gỗ lớn phù hợp với đặc thù theo vùng sinh thái, giống cây ngập mặn phục vụ trồng rừng ngập mặn thích ứng với biến đổi khí hậu; nghiên cứu làm chủ công nghệ xử lý, tái chế và sử dụng phụ phẩm, sinh khối trong ngành công nghiệp rừng; các công nghệ chế tạo vật tư đầu vào (keo, sơn, chất kết dính…) an toàn với sức khoẻ con người và môi trường; nghiên cứu làm chủ các quy trình canh tác, phục hồi rừng tự nhiên đảm bảo chất lượng rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.
Ngoài ra, đối với lĩnh vực thuỷ lợi, tập trung nghiên cứu làm chủ công nghệ sử dụng nước tiết kiệm; quy trình canh tác kết dinh dưỡng theo nước, dinh dưỡng theo đất phù hợp với đặc thù loại cây trồng, vùng sinh thái; quy trình chăn nuôi tiết kiệm nước, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải đảm bảo an ninh nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp.
Nguồn:Nghiên cứu công nghệ, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp