Hà Nội: 18°C
Thừa Thiên Huế: 20°C
Hải Phòng: 18°C
Quảng Ninh: 17°C
TP Hồ Chí Minh: 26°C

Nhận diện và giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn trong tổ chức, vận hành chính quyền địa phương hai cấp

Mô hình chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh – xã) sau 4 tháng vận hành đã giúp giảm tầng nấc trung gian, tinh gọn bộ máy, tăng tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt và giúp người dân tiếp cận dịch vụ công thuận lợi, nhanh chóng hơn. Theo đó, chính quyền cấp xã được xác định là cấp cơ sở chủ lực, là “điểm chạm” quan trọng của Chính phủ số, trực tiếp kết nối, phục vụ và mang lại trải nghiệm hành chính hiện đại cho người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, giai đoạn vận hành ban đầu không thể tránh khỏi một số bất cập nhất định. Xuất phát từ thực tế đó, bài viết tập trung nhận diện các “điểm nghẽn” trong tổ chức, vận hành chính quyền địa phương hai cấp đồng thời đề xuất giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn nhằm bảo đảm quá trình vận hành thực chất, hiệu quả và bền vững.

Từ khóa: Tổ chức, vận hành, chính quyền hai cấp, tháo gỡ điểm nghẽn.

1. Nhận diện các “điểm nghẽn” trong tổ chức, vận hành chính quyền địa phương 2 cấp

1.1. Về văn bản quy phạm pháp luật

Theo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 chính thức có hiệu lực từ ngày 16/6/2025, bộ máy chính quyền địa phương được tổ chức theo hai cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và cấp xã (xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh). Nhiều nhiệm vụ, quyền hạn trước đây của cấp huyện được phân cấp xuống cấp xã, một số chuyển lên cấp tỉnh. Chính phủ đã ban hành 28 nghị định quy định phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp trong các lĩnh vực để cụ thể hóa thẩm quyền của chính quyền các cấp, trong đó quy định nhiều thẩm quyền mới của cấp xã. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu khi mới vận hành chính quyền địa phương hai cấp, còn có một số bất cập nhất định trong quá trình tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật, cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với nhiều quy định rất mới, một số văn bản quy phạm pháp luật dưới luật chưa kịp sửa đổi, bổ sung để phù hợp với mô hình mới. Một số quy định còn đan xen, chưa đồng bộ khiến cán bộ, công chức ở địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở lúng túng khi áp dụng, dễ dẫn tới tình trạng trì hoãn trong giải quyết thủ tục hành chính.

Thứ hai, một số bộ, ngành và địa phương còn chưa xác định rõ việc phân cấp, phân quyền là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để vận hành chính quyền địa phương hai cấp hiệu quả. Việc đề xuất một số nội dung phân cấp, phân quyền gắn với cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc ngành, lĩnh vực còn chậm. Một số nhiệm vụ chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật, có nhiệm vụ chưa bảo đảm tính khả thi hoặc chưa rõ thủ tục hành chính. Việc hướng dẫn trình tự, thủ tục hành chính và cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực chưa bảo đảm yêu cầu, dẫn đến vướng mắc khi thực hiện ở địa phương (nhất là một số lĩnh vực đất đai, môi trường, khoa học công nghệ,…). Nhiều địa phương chưa chủ động đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền giữa các cấp chính quyền địa phương (đến nay mới có 14/34 tỉnh, thành phố thực hiện phân cấp một số nhiệm vụ, quyền hạn)1.

Việc phân quyền, phân cấp cho cấp xã trên thực tế chưa rõ ràng, phần lớn vẫn mang tính chất ủy quyền từ cấp trên, trong khi xã ít được trao thực quyền. Hệ quả là trách nhiệm pháp lý không được quy định minh bạch, dẫn tới tình trạng “đùn đẩy trách nhiệm” giữa các cấp hoặc giữa các cơ quan trong cùng một địa phương.

Thứ ba, cơ chế pháp lý dành cho thôn, bản, tổ dân phố, vốn được coi là “cánh tay nối dài” của xã vẫn chưa hoàn thiện. Nhiều nơi, hoạt động của thôn, bản, tổ dân phố còn mang tính tự phát, chưa được bảo đảm về nguồn lực cũng như chế độ chính sách cho người tham gia.

1.2. Về khối lượng và áp lực công việc

Trong quá trình tinh gọn bộ máy, trên cơ sở kết quả 6.738 nhiệm vụ, thẩm quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý ngành được rà soát, đã xác định được 2.541 nhiệm vụ, với 1.377 nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền và 1.164 nhiệm vụ được phân định thẩm quyền. Trong đó có nhiều nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương. Việc phân cấp, phân quyền gắn với cắt giảm, đơn giản hoá thủ tục hành chính, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đã làm gia tăng thẩm quyền và các thủ tục được giải quyết ở chính quyền địa phương (trung ương: 44%, địa phương: 56%)2.

Thực tiễn triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp cho thấy, cấp xã đang phải gánh vác một khối lượng công việc rất lớn, tới 1.065 nhiệm vụ được chuyển xuống từ tỉnh và huyện. Trong đó có nhiều thẩm quyền mới, lần đầu tiên được thực hiện ở cấp xã với tính chất phức tạp và trực tiếp giải quyết các công việc của người dân, doanh nghiệp đã dẫn tới áp lực lớn cho chính quyền địa phương, nhất là cấp xã.

1.3. Về tổ chức bộ máy và số lượng, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức

UBND cấp xã được tổ chức thành 3 phòng chuyên môn, gồm: Văn phòng Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã; Phòng Kinh tế (ở xã và đặc khu) hoặc Phòng Kinh tế, hạ tầng và đô thị (ở phường và đặc khu Phú Quốc); Phòng Văn hóa – xã hội. Văn phòng HĐND và UBND cấp xã tham mưu, giúp UBND cấp xã quản lý nhà nước các lĩnh vực: văn phòng, tư pháp, đối ngoại. Phòng Kinh tế hoặc Phòng Kinh tế, hạ tầng và đô thị tham mưu giúp UBND cấp xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: tài chính – kế hoạch, xây dựng và công thương, nông nghiệp và môi trường trình hạ tầng thiết yếu, quản lý đô thị… Phòng Văn hóa – xã hội tham mưu giúp UBND cấp xã quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: nội vụ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, khoa học, thông tin, lao động, người cao tuổi… Như vậy, mỗi phòng chuyên môn phải phụ trách rất nhiều mảng lĩnh vực quản lý nhà nước với chỉ 1 trưởng phòng và 1 phó trưởng phòng và khoảng 6 – 10 công chức là một thách thức rất lớn đối với UBND cấp xã. Một số địa phương phản ánh việc chỉ bố trí 1 cấp phó của phòng chuyên môn chưa tương xứng với khối lượng công việc lớn, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, gây áp lực lớn trong chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã.

Việc bố trí công chức cấp xã chưa đồng đều, nơi đủ hoặc dư biên chế nhưng lại thiếu cán bộ có chuyên môn trong các lĩnh vực trọng yếu. Ở nhiều xã miền núi thuộc một số địa phương, việc bố trí cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin, tài chính – kế toán chưa đáp ứng yêu cầu công việc, buộc phải kiêm nhiệm do đó ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng công việc. Tình trạng thiếu công chức có chuyên môn sâu khiến nhiều hồ sơ phải chuyển cấp trên giải quyết, làm giảm hiệu quả phân cấp. Đặc biệt, ở phòng chuyên môn còn có một số công chức bố trí không đúng chuyên môn, năng lực không đồng đều, kỹ năng cơ bản như kỹ năng số, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng soạn thảo văn bản còn hạn chế, dẫn tới lúng túng trong tiếp nhận và xử lý thông tin.

Sau quá trình sáp nhập đơn vị hành chính, tình trạng kiêm nhiệm diễn ra phổ biến: một cán bộ xã có thể đồng thời đảm nhiệm chức vụ trong Đảng, trong chính quyền và nhiều công việc chuyên môn khác, khiến khối lượng công việc càng thêm chồng chất. Chế độ đãi ngộ hiện hành cũng chưa tương xứng, lương và phụ cấp thấp khiến nhiều cán bộ trẻ có trình độ, tâm huyết nhưng không yên tâm gắn bó, thậm chí đã xuất hiện tình trạng xin nghỉ việc ở một số địa phương.

Tất cả những bất cập này không chỉ làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở mà còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định trong việc duy trì nguồn nhân lực chất lượng cho cấp xã trong thời gian tới. Hiện nay, các địa phương đang tiến hành rà soát hiện trạng việc bố trí, sử dụng công chức đáp ứng chuyên môn nghiệp vụ; xác định số lượng công chức còn thiếu để kịp thời bổ sung nhân lực và tạm thời định hướng danh mục vị trí việc làm ở cấp xã.

1.4. Về cơ sở hạ tầng và chuyển đổi số

Một trong những trở ngại lớn hiện nay đối với việc vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp chính là hạn chế về cơ sở hạ tầng và chuyển đổi số.

Trụ sở, trang thiết bị làm việc ở khá nhiều địa phương, nhất là cấp xã ở miền núi, vùng cao còn thiếu, xuống cấp. Đến nay, vẫn còn 495/3.321 đơn vị hành chính cấp xã chưa đáp ứng đầy đủ về máy móc, trang thiết bị làm việc. Việc xử lý, chuyển đổi công năng sử dụng trụ sở dôi dư còn chậm; còn nhiều cơ sở nhà, đất phải tiếp tục xử lý (15.927 cơ sở)3. Công tác bàn giao tài sản sắp xếp đơn vị hành chính vẫn tồn đọng lớn, nhiều cấp xã chưa hoàn thành theo quy định. Một số địa phương vẫn còn khó khăn trong việc bố trí nhà ở, phương tiện cho cán bộ, công chức, viên chức khi chuyển đến nơi làm việc mới.

Hạ tầng công nghệ thông tin ở nhiều xã vẫn còn lạc hậu, thiếu đường truyền ổn định, thiết bị sử dụng đã cũ, đồng thời cơ sở dữ liệu chưa được kết nối, liên thông với tỉnh và trung ương, khiến việc quản lý và khai thác thông tin gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các dịch vụ công trực tuyến ở cấp xã mới chủ yếu dừng lại ở mức độ 2, trong khi mức độ 3 và 4 cho phép nộp hồ sơ, xử lý và trả kết quả trực tuyến mới được triển khai hạn chế, dẫn đến việc người dân khó tiếp cận, chưa cảm nhận rõ tiện ích của chuyển đổi số trong giải quyết thủ tục hành chính. Đội ngũ công chức phụ trách công nghệ thông tin đa phần làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, thiếu kiến thức chuyên sâu về bảo mật và quản trị dữ liệu, do vậy khó có thể bảo đảm an toàn, an ninh mạng cũng như vận hành trơn tru các hệ thống số.

Ở vùng nông thôn và miền núi, nhiều người dân vẫn chưa quen với việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến, hạn chế về kỹ năng số và điều kiện hạ tầng khiến họ còn ngần ngại, thậm chí e dè khi tiếp cận. Những yếu tố này cộng hưởng đã làm giảm đáng kể hiệu quả của tiến trình chuyển đổi số ở cấp xã, khiến mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số gần dân và phục vụ người dân một cách thuận tiện, hiện đại chưa đạt được như kỳ vọng.

1.5. Về tài chính

Một rào cản trong quá trình vận hành chính quyền địa phương hai cấp hiện nay là vấn đề tài chính. Trước hết, nguồn lực ngân sách phân bổ cho cấp xã chưa thực sự tương xứng với khối lượng nhiệm vụ rất lớn mà đơn vị này đang phải đảm nhận. Trong khi số lượng công việc ngày càng tăng, từ quản lý đất đai, xây dựng, an sinh xã hội đến cải cách hành chính và chuyển đổi số thì ngân sách cấp xã vẫn chủ yếu dựa vào định mức cũ, không phản ánh đầy đủ nhu cầu thực tế, khó bảo đảm thực thi đầy đủ các nhiệm vụ mới.

Bên cạnh đó, các xã hầu như chưa có cơ chế tự chủ tài chính rõ ràng, phần lớn vẫn phụ thuộc vào ngân sách tỉnh, dẫn đến tính chủ động trong hoạch định và triển khai nhiệm vụ bị hạn chế. Điều này làm cho cấp xã vừa phải gánh vác trách nhiệm lớn, vừa bị động trong việc huy động và sử dụng nguồn lực. Thêm vào đó, cơ chế xã hội hóa dịch vụ công tại cấp cơ sở còn rất thiếu, khiến toàn bộ gánh nặng chi phí dồn lên ngân sách nhà nước. Việc thiếu sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp và cộng đồng trong cung ứng dịch vụ công không chỉ tạo áp lực tài chính cho chính quyền xã mà còn làm giảm tính linh hoạt, hạn chế khả năng cải thiện chất lượng phục vụ người dân. Những bất cập này cho thấy, nếu không có cải cách mạnh mẽ trong phân bổ ngân sách và cơ chế tài chính, chính quyền cấp xã sẽ khó bảo đảm tính bền vững và hiệu quả khi thực hiện mô hình hai cấp.

1.6. Về cơ chế phối hợp, trách nhiệm giải trình và lưu trữ hồ sơ

Một điểm nghẽn quan trọng khác trong vận hành chính quyền địa phương hai cấp chính là cơ chế phối hợp và trách nhiệm giải trình chưa thực sự hiệu quả. Trên thực tế, nhiều nhiệm vụ hiện nay vừa do sở, ngành dọc chỉ đạo, vừa do tỉnh quản lý, trong khi cấp xã lại trực tiếp thực hiện nhưng không có quy trình liên thông rõ ràng. Điều này dẫn tới tình trạng phối hợp dọc – ngang thiếu thông suốt, chính quyền cấp xã thường phải giải quyết công việc nhưng thiếu nguồn lực và phương tiện cần thiết. Hệ quả tiếp theo là sự chồng chéo trách nhiệm, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm, như: quản lý đất đai, xây dựng, an sinh xã hội, nơi mà cả tỉnh và xã đều tham gia nhưng không xác định rõ cơ quan đầu mối, khiến hồ sơ bị kéo dài, thậm chí gây bức xúc trong Nhân dân.

Bên cạnh đó, trách nhiệm giải trình ở cấp xã vẫn còn mang tính hình thức, một số nơi chưa công khai minh bạch thông tin về ngân sách, quy hoạch hay kết quả giải quyết thủ tục hành chính; các kỳ họp HĐND xã chưa thực sự đi sâu vào chất vấn dẫn đến vai trò giám sát của Nhân dân bị hạn chế. Chính sự thiếu minh bạch và cơ chế giải trình thực chất này đã làm giảm tính công khai, minh bạch trong quản trị, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với bộ máy chính quyền cơ sở.

Việc lưu trữ hồ sơ, phân loại, chỉnh lý hồ sơ lưu trữ khi sắp xếp đơn vị hành chính còn hạn chế và chưa bảo đảm yêu cầu của Luật Lưu trữ và hướng dẫn của Bộ Nội vụ; tỷ lệ số hóa tài liệu lưu trữ còn thấp.

1.7. Về nhận thức, tư duy quản trị và tâm lý của đội ngũ cán bộ, công chức

Bên cạnh những hạn chế về thể chế, nhân sự hay nguồn lực, một điểm nghẽn đáng lưu ý trong vận hành chính quyền địa phương hai cấp là vấn đề nhận thức và tư duy quản trị của đội ngũ cán bộ cơ sở. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ xã vẫn duy trì lối tư duy mang nặng tính “quản lý hành chính”, tập trung vào việc kiểm soát thủ tục, hồ sơ, giấy tờ hơn là hướng tới hiệu quả quản lý và sự hài lòng của người dân. Điều này khiến cho hoạt động của chính quyền cơ sở đôi khi còn nặng tính hình thức, chậm đổi mới, chưa bắt kịp yêu cầu xây dựng nền hành chính phục vụ. Bên cạnh đó, do áp lực khối lượng công việc lớn, chế độ đãi ngộ hạn chế cùng với trách nhiệm ngày càng gia tăng, không ít cán bộ xã xuất hiện tâm lý e ngại, lo lắng, thậm chí có người đã xin nghỉ việc. Nếu không có những thay đổi căn bản về tư duy quản lý – chuyển từ “quản lý” sang “phục vụ, đồng hành với người dân” thì mô hình chính quyền hai cấp khó có thể vận hành hiệu quả, đồng thời nguy cơ “chảy máu chất xám” ở cấp cơ sở sẽ tiếp tục gia tăng.

2. Giải pháp tháo gỡ các “điểm nghẽn” trong vận hành chính quyền địa phương hai cấp

2.1. Đổi mới tư duy quản lý

Thay vì tư duy tiếp cận thiên về quản lý, kiểm soát thủ tục và hồ sơ, chính quyền cơ sở cần chuyển sang tư duy kiến tạo, phục vụ, đặt trọng tâm vào hiệu quả công việc, chất lượng phục vụ và sự hài lòng của người dân. Trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp, cán bộ, công chức cấp xã cần chủ động xử lý công việc với tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn, thay vì thụ động theo kiểu “cấp xã truyền thống” trước đây. Bên cạnh đó, cần xây dựng và lan tỏa văn hóa công vụ mới, lấy các giá trị phục vụ Nhân dân, minh bạch trong điều hành, trách nhiệm trong hành động làm chuẩn mực. Khi tư duy quản lý được đổi mới, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã sẽ không chỉ làm đúng chức năng quản lý, mà còn trở thành chủ thể kiến tạo phát triển, đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp trong xây dựng chính quyền cơ sở hiện đại, hiệu quả.

2.2. Hoàn thiện thể chế

Để tháo gỡ những điểm nghẽn hiện nay, việc hoàn thiện thể chế liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống hành chính nhà nước là giải pháp mang tính nền tảng, cụ thể:

Một là, tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy hoạch đô thị, đất đai, đầu tư để tháo gỡ điểm nghẽn của thể chế giúp các địa phương chủ động trong quản lý đô thị và đầu tư.

Hai là, rà soát, hoàn thiện các quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước; xác định rõ danh mục những nhiệm vụ của từng cấp được toàn quyền quyết định, giảm tối đa những nhiệm vụ có thẩm quyền quyết định nhưng phải xin ý kiến của cấp trên.

Ba là, chính quyền địa phương chủ động ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để phân cấp cho chính quyền cấp dưới thực hiện liên tục, thường xuyên một số các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bảo đảm tính hợp lý, thuận lợi, thông suốt, liên tục và hiệu quả. Đối với các nhiệm vụ, thẩm quyền đã được phân cấp, phân quyền hoặc phân định khó khả thi do địa phương thiếu năng lực hoặc thiếu điều kiện bảo đảm thực hiện thì các cấp chính quyền địa phương cần chủ động đề xuất Chính phủ, các bộ, ngành để điều chỉnh cho phù hợp với nguyên tắc cấp nào làm hiệu quả nhất thì để cấp đó thực hiện.

Bốn là, rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của chính quyền cấp xã, của các phòng chuyên môn thuộc UBND cấp xã.

Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp lý đối với thôn, tổ dân phố – vốn là “cánh tay nối dài” của xã, bao gồm quy định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ cũng như chế độ, chính sách cho đội ngũ không chuyên trách, nhằm bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả.

2.3. Nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức

Một trong những giải pháp trọng tâm để bảo đảm hiệu quả mô hình chính quyền hai cấp là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cần thực hiện một số hoạt động cơ bản sau:

Thứ nhất, phân tích công việc và xây dựng khung năng lực phù hợp với các vị trí việc làm ở cấp xã.

Trên cơ sở định hướng của Bộ Nội vụ về 36 vị trí việc làm cấp xã (28 vị trí công chức chuyên môn và 8 vị trí cán bộ, công chức lãnh đạo) cần xây dựng Khung năng lực của từng vị trí việc làm. Trong Khung năng lực không chỉ tính tới những kiến thức, kỹ năng, thái độ về chuyên môn, nghiệp vụ mà còn phải quan tâm đến những năng lực mới như năng lực số, năng lực đa nhiệm, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với bối cảnh mới của chính quyền địa phương hai cấp.

Thứ hai, bổ sung, tăng cường nhân lực cho chính quyền cấp xã.

Trên cơ sở định hướng 36 vị trí việc làm tại xã, chính quyền địa phương cấp xã cần xác định số lượng công chức còn thiếu để khẩn trương bổ sung nhân lực, nhất là các chuyên ngành công nghệ thông tin và chuyển đổi số, tài chính, kế toán, quy hoạch, quản lý đất đai, xây dựng ở cấp xã và các vị trí trực tiếp phục vụ người dân, doanh nghiệp theo các phương thức sau:

(1) Điều chuyển công chức giữa các xã, phường cho phù hợp với thực tiễn nhiệm vụ, bảo đảm đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn, nghiệp vụ theo kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

(2) Ký hợp đồng lao động đối với người có chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng ngay yêu cầu nhiệm vụ (ưu tiên các chuyên ngành công nghệ thông tin và chuyển đổi số, kế toán, địa chính, xây dựng…) theo quy định.

(3) Thi tuyển, xét tuyển hoặc tiếp nhận công chức theo quy định tại Nghị định số 170/2025/NĐ-CP ngày 30/6/2025 của Chính phủ, trong số biên chế đã được cấp có thẩm quyền giao chưa sử dụng (bảo đảm không thay đổi tổng biên chế đã được giao cho địa phương). Ưu tiên tuyển dụng người có kinh nghiệm, đáp ứng ngay yêu cầu nhiệm vụ ở cấp xã.

Ngoài ra, cần điều chỉnh định mức biên chế theo hướng linh hoạt, bổ sung số lượng cấp phó, đặc biệt tại những xã loại I và các địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh, nơi khối lượng công việc tăng mạnh.

Thứ ba, xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ theo từng vị trí việc làm tại cấp xã theo hướng bồi dưỡng tác nghiệp đặc biệt là công chức liên quan lĩnh vực chuyên môn như công nghệ thông tin và chuyển đổi số, tài chính, đầu tư, địa chính, xây dựng, tư pháp… Bảo đảm thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của các lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu vận hành chính quyền địa phương cấp xã.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng cần phân nhóm chức danh để nâng cao tính thiết thực: với đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp xã, chú trọng kỹ năng điều phối, lãnh đạo, quản lý; với cán bộ chuyên môn, tập trung vào kỹ năng áp dụng pháp luật, quản trị dữ liệu; với cán bộ trẻ, khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo, năng lực số và thích ứng với công nghệ mới. Ngoài ra, cần tạo môi trường học tập liên tục thông qua học liệu số, nền tảng đào tạo trực tuyến, qua đó khuyến khích cán bộ tự học, tự hoàn thiện kỹ năng. Đây chính là chìa khóa để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vừa có năng lực chuyên môn vững vàng, vừa có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu quản trị hiện đại trong bối cảnh chính quyền hai cấp.

Thứ tư, xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý hơn, áp dụng phụ cấp đặc thù cho cán bộ, công chức công tác tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng thời có lộ trình cải thiện tiền lương gắn với kết quả và hiệu quả công vụ nhằm khuyến khích cán bộ, công chức yên tâm cống hiến.

2.4. Phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Thứ nhất, cần tập trung nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin (đường truyền internet, trang thiết bị công nghệ), làm sạch và đồng bộ hoá cơ sở dữ liệu. Đặc biệt là xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông giữa các cấp chính quyền, giữa các lĩnh vực trọng yếu như dân cư, đất đai, hộ tịch… trên phạm vi cả nước nhằm bảo đảm tính thống nhất, minh bạch, dễ dàng khai thác, khắc phục tình trạng “cát cứ dữ liệu” song vẫn bảo đảm tính bảo mật của thông tin.

Thứ hai, Trung tâm phục vụ hành chính công cấp xã cần được chuẩn hóa, hiện đại hóa, tích hợp hệ thống nộp hồ sơ điện tử, thanh toán trực tuyến và tra cứu kết quả trên nền tảng số, giúp giảm thời gian và chi phí cho người dân. Việc đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 là hết sức cần thiết, trong đó có thể phát triển các ứng dụng di động, sử dụng mã QR để tra cứu, thanh toán, cấp biên lai điện tử, qua đó nâng cao trải nghiệm số của người dân và doanh nghiệp.

Thứ ba, phát triển nhân lực số tại cấp xã bằng cách tuyển dụng đội ngũ công chức chuyên trách công nghệ thông tin ở những xã đặc biệt cần thiết hoặc tổ chức đào tạo chuyên sâu về ứng dụng công nghệ thông tin, bảo mật và quản trị dữ liệu cho cán bộ, công chức.

Thứ tư, tập huấn, tuyên truyền cho người dân, doanh nghiệp về khai thác, sử dụng các nền tảng số, dịch vụ số do chính quyền, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp; hỗ trợ người dân thực hiện số hoá và nộp hồ sơ trực tuyến, triển khai các hoạt động truyền thông chủ động và minh bạch. Hỗ trợ cộng đồng dân cư trong quá trình chuyển đổi số, có thể thành lập các “Tổ công nghệ cộng đồng” tại thôn, bản, ấp, tổ dân phố để trực tiếp hướng dẫn, hỗ trợ người dân – nhất là người cao tuổi, hộ nghèo, người dân vùng nông thôn, miền núi – tiếp cận và sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

2.5. Đổi mới cơ chế tài chính – ngân sách

Đổi mới cơ chế tài chính – ngân sách theo hướng trao quyền tự chủ nhiều hơn cho cấp xã: nguồn thu – chi phải gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm tạo động lực chủ động khai thác nguồn lực và nâng cao trách nhiệm trong sử dụng tài chính công. Bên cạnh đó, cần khuyến khích mạnh mẽ xã hội hóa dịch vụ công ở những lĩnh vực có thể huy động nguồn lực cộng đồng và doanh nghiệp như vệ sinh môi trường, quản lý đô thị, dịch vụ an sinh xã hội, qua đó giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ. Đặc biệt, việc phân bổ ngân sách phải dựa trên khối lượng công việc thực tế, thay vì áp dụng định mức cứng nhắc như trước đây để bảo đảm công bằng giữa các xã, phường, đặc khu có tính chất, quy mô dân số, diện tích và tốc độ đô thị hóa khác nhau. Khi có quyền tự chủ tài chính và được phân bổ ngân sách hợp lý, chính quyền cấp xã không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tạo ra cơ chế khuyến khích đổi mới, sáng tạo và phát triển bền vững.

3. Kết luận

Mô hình chính quyền địa phương hai cấp là xu hướng tất yếu trong lộ trình cải cách, tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Mô hình này tạo ra nhiều cơ hội, thúc đẩy sự phát triển của các địa phương tuy nhiên, để mô hình hoạt động hiệu quả, cần tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế, tổ chức, nhân sự, hạ tầng và tài chính để bảo đảm mô hình địa phương hai cấp sẽ trở thành chính quyền gần dân, vì dân, hiện đại và minh bạch, đóng góp quan trọng vào tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và chính phủ số hiện nay.

Chú thích:

1, 2, 3. Bộ Nội vụ (2025). Báo cáo số 8009/BC-BNV ngày 16/9/2025 tóm tắt về tình hình triển khai thực hiện và vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Tài liệu tham khảo:

1. Đồng Đại Lộc (2025). Tư duy hệ thống về cải cách hành chính trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử, đăng ngày 6/8/2025.

2. Trần Thị Diệu Oanh (2025). Quản trị địa phương theo mô hình chính quyền hai cấp ở Việt Nam. Tạp chí Quản lý nhà nước điện tử, đăng ngày 15/7/2025

3. Nguyễn Thị Phượng (2018). “Quản trị địa phương – Từ lý thuyết đến thực tế”. H. NXB Khoa học Xã hội.

4. Quốc hội (2025). Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 (có hiệu lực từ 16/6/2025).

5. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 759/QĐ-TTg ngày 14/4/2025 về phê duyệt đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.

Nguồn: Nhận diện và giải pháp tháo gỡ các điểm nghẽn trong tổ chức, vận hành chính quyền địa phương hai cấp

PGS.TS. Hoàng Mai - Học viện Hành chính và Quản trị công
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Thị trường chứng khoán ngày 15/12: Dòng tiền thận trọng, VN Index “hụt hơi”

Thị trường chứng khoán ngày 15/12: Dòng tiền thận trọng, VN Index “hụt hơi”
Dù có lúc bứt phá hơn 18 điểm trong phiên sáng, VN Index lại “hụt hơi” vào buổi chiều và đóng cửa quanh tham chiếu với mẫu nến Doji lưỡng lự. Thanh khoản rơi xuống dưới 19 nghìn tỷ đồng, dòng tiền thận trọng, chỉ còn một vài nhóm như dầu khí, chứng khoán và midcaps le lói tín hiệu hồi phục.

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 16/12/2025: Tuổi Thìn khá lộc lá, tuổi Tỵ nên cẩn thận

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 16/12/2025: Tuổi Thìn khá lộc lá, tuổi Tỵ nên cẩn thận
Những bí ẩn của khoa học đời sống là "món ăn" tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Tử vi vòng quay công nghệ xem tử vi 12 con giáp ngày 16/12/2025 cho tất cả các tuổi nhằm dự đoán vận hạn về công danh, tiền bạc, tình duyên, sức khỏe...

Lào Cai đoạt 3 giải tại Cuộc thi “Cùng Đức Việt và O"Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm”

Lào Cai đoạt 3 giải tại Cuộc thi “Cùng Đức Việt và O"Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm”
Trong hai ngày (13 - 14/12), tại Thủ đô Hà Nội, vòng chung kết toàn quốc Cuộc thi Nghệ thuật “Cùng Đức Việt & O’Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm” lần thứ XI đã diễn ra sôi nổi, giàu cảm xúc, quy tụ hàng trăm tài năng nghệ thuật nhí đến từ nhiều tỉnh, thành trên cả nước.

Cần Thơ phát triển hệ thống quan trắc, cảnh báo ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản

Cần Thơ phát triển hệ thống quan trắc, cảnh báo ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản
TP. Cần Thơ sẽ đầu tư hệ thống quan trắc tự động và trung tâm cảnh báo sớm tích hợp toàn thành phố, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và viễn thám để phát hiện sớm ô nhiễm, dịch bệnh hoặc biến động diện tích nuôi trồng thủy sản.

Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế biển xanh

Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế biển xanh
Một trong những giải pháp được chuyên gia đề xuất là phát triển mạnh hạ tầng, đặc biệt là cảng cửa ngõ quốc tế, logistics đa phương thức; đồng thời quản lý chặt các dự án lấn biển. Đồng thời, phát triển mạnh mẽ các cụm công nghiệp nuôi biển, như là giải pháp đột phá đưa nuôi biển Việt Nam thoát khỏi tình trạng thủ công, manh mún và tiến tới sản xuất quy mô lớn.