Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội Quán triệt quan điểm của Đảng: Chủ động bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng từ sớm, từ xa |
![]() |
Người dân đi khám sức khỏe tại Trạm Y tế xã Lương Mông, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh_ Ảnh: baodantoc.vn |
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản
Dịch vụ xã hội cơ bản (DVXHCB) và bảo đảm các DVXHCB đã được các tổ chức quốc tế nêu ra từ tháng 5-1995, tại Thủ đô Copenhagen của Đan Mạch, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc phối hợp với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Quỹ dân số Liên hợp quốc, Tổ chức Y tế Thế giới tổ chức, cho rằng: DVXHCB là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống
Cũng tại Hội nghị này, trong sáng kiến 20/20 (chính phủ các nước tài trợ và các nước nhận viện trợ cam kết lần lượt dành ít nhất 20% nguồn hỗ trợ phát triển phính thức - ODA và ngân sách nhà nước cho DVXHCB), các hợp phần của DVXHCB đã được thống nhất, bao gồm: y tế cơ bản; giáo dục cơ bản; dân số và kế hoạch hóa gia đình; các dịch vụ xã hội liên quan đến cứu trợ thiên tai; nước sạch và vệ sinh(1).
Ở Việt Nam, những quan điểm về bảo đảm các khía cạnh của DVXHCB được đề cập từ rất sớm trong các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Tại Đại hội III (tháng 9-1960), Đảng ta chỉ rõ: “Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị”(2). Các kỳ đại hội sau, Đảng ta tiếp tục khẳng định không ngừng cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân về ăn mặc, nhà ở, đi lại, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, học tập và chăm sóc sức khỏe.
Trước năm 2001, cụm từ DVXHCB chưa được sử dụng chính thức trong văn kiện của Đảng, văn bản hành chính; tuy nhiên, cùng với chủ trương đổi mới, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quan điểm xã hội hóa trong việc cung ứng DVXHCB. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, người dân, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Đảng và Nhà nước tạo mọi điều kiện để thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo nguồn lực để hiện thực hóa các mục tiêu xã hội, thông qua bảo đảm các hợp phần của DVXHCB. Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Trên cơ sở phát triển sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quỹ tiêu dùng xã hội, làm cho nó có vị trí ngày càng lớn trong phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác”(3).
Với nhận thức về đặc trưng định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn, Đảng và Nhà nước thể chế hóa chủ trương về DVXHCB và bảo đảm DVXHCB để thuận lợi trong chỉ đạo thực tiễn, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn cho nhân dân. Theo đó, trong mục tiêu tổng quát của Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005, đã khẳng định: “Nhằm tạo các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các DVXHCB, xóa đói, giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”(4).
Ngày 26-02-2001, Thủ tướng đã phê duyệt Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Trong hệ thống các chính sách được ban hành nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Chính phủ đã nhấn mạnh đến chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hỗ trợ thực hiện các mục tiêu vì trẻ em, bao gồm cả việc tham gia cung ứng các DVXHCB cho gia đình và trẻ em.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01-6-2012 về Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. Nghị quyết đã chỉ ra cần bảo đảm mức tối thiểu về một số DVXHCB như: bảo đảm giáo dục tối thiểu; bảo đảm y tế tối thiểu; bảo đảm nhà ở tối thiểu; bảo đảm nước sạch và vệ sinh môi trường; bảo đảm thông tin truyền thông cho người dân, đặc biệt là những hộ nghèo, gia đình chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới(5).
Trên cơ sở vận động của thực tiễn, tiếp cận với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên từng bước chuyển đổi phương pháp tiếp cận và đưa ra các chuẩn nghèo đa chiều dựa trên các tiêu chí tối thiểu của người dân khi được bảo đảm các DVXHCB. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin”(6).
Để tiếp tục hiện thực hóa mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, ngày 27-01-2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2021/NĐ-CP về Quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025. Trong các chỉ số để đo lường nghèo đa chiều, một lần nữa đã xác định các hợp phần DVXHCB gồm: việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin(7).
Tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân”(8), và “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm…”(9). Đồng thời, đặt ra mục tiêu phát triển xã hội trong 10 năm tới: “Phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu theo Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng các nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản”(10).
Như vậy, cùng với quá trình hoàn thiện nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến mọi mặt đời sống xã hội của nhân dân, khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN thông qua các chính sách cụ thể về bảo đảm các loại hình DVXHCB cho người dân, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số, những đối tượng yếu thế trong xã hội.
2. Thực tế bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản
Kết quả đạt được
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật: “Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường… có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật”(11), “nhiều gia đình đã tiếp cận được những dịch vụ xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao”(12). Cụ thể:
Một là, về việc làm. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy mạnh chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm cơ cấu lại lao động, giải quyết việc làm cho người lao động. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, xúc tiến phát triển thị trường xuất khẩu lao động. Nhờ đó, tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức thấp và giảm dần, năm 2022: “Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cả nước sơ bộ là 2,34%, giảm 0,86 điểm phần trăm so với năm trước, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 2,82%, giảm 1,51 điểm phần trăm; khu vực nông thôn là 2,04%, giảm 0,46 điểm phần trăm. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,21%, giảm 0,89 điểm phần trăm so với năm trước, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nam là 2,28%, giảm 0,95 điểm phần trăm; tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nữ là 2,13%, giảm 0,81 điểm phần trăm”(13). Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong bảo đảm thu nhập cho người lao động, nhất là người nghèo, người yếu thế trong xã hội, giúp họ trang trải những khó khăn trong cuộc sống.
Hai là, về y tế. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người dân được quan tâm. Nhà nước đã đầu tư hệ thống y tế, nâng cấp hạ tầng cơ sở, trang thiết bị phục vụ công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân. Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được củng cố và phát triển: “Số giường bệnh năm 2022 của cả nước là 315,6 nghìn giường (không bao gồm số giường bệnh thuộc tuyến trung ương quản lý), tăng 2,5% so với năm 2021. Số giường bệnh bình quân trên 1 vạn dân là 31,7 giường bệnh, tăng 1,8%; số bác sỹ là 99,6 nghìn người, tăng 1,6%; số bác sĩ bình quân 1 vạn dân là 10 bác sỹ, tăng 0,7%”(14); Có gần 29,8 triệu thẻ bảo hiểm xã hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ hưởng(15).
Bên cạnh đó, sức khỏe sinh sản của bà mẹ và trẻ em, chế độ dinh dưỡng của trẻ em được chăm lo, từng bước cải thiện sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam. “Năm 2022, tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin đạt 87,6%, tăng 0,5 điểm phần trăm so với năm 2021. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng cân nặng theo tuổi là 10,8%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2021; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng chiều cao theo tuổi là 19%, giảm 0,2 điểm phần trăm”(16).
Ba là, về giáo dục. Trong các nhiệm kỳ Đại hội gần đây, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và trên thực tế đã tích cực triển khai, bước đầu có hiệu quả. Công tác phổ cập giáo dục các cấp được quan tâm chỉ đạo và duy trì vững chắc, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong cả nước, nhất là ở những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em dưới 5 tuổi và giáo dục phổ thông chuyển biến tốt được thế giới công nhận, đánh giá cao.
Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hệ thống trường lớp, đội ngũ giáo viên cơ bản bảo đảm: tính đến ngày 14-6-2023, cả nước có 14.308 trường mầm non; 23.559 trường phổ thông, trong đó có 12.085 trường tiểu học, 7.640 trường trung học cơ sở, 1.526 trường trung học phổ thông và 2.308 trường phổ thông có nhiều cấp học. Số giáo viên mầm non là 332,6 nghìn người, số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy là 721,8 nghìn người, bao gồm: 377,7 nghìn giáo viên tiểu học; 254,4 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 89,7 nghìn giáo viên trung học phổ thông(17).
Bốn là, về nhà ở. Trong những năm gần đây, việc hỗ trợ, tạo điều kiện về nhà ở cho những gia đình chính sách, hộ nghèo, học sinh, sinh viên, người lao động có thu nhập thấp được Đảng, Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, dành nhiều nguồn lực đầu tư phát triển. Đã hỗ trợ nhà ở cho hơn 335,8 nghìn hộ người có công và cho hơn 181,4 nghìn hộ nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị bão, lụt; xây dựng hơn 6 triệu m2 nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp tại các đô thị và công nhân khu công nghiệp(18).
Năm là, vệ sinh môi trường và nước sinh hoạt. Một số chỉ tiêu môi trường đạt và vượt kế hoạch. Năm 2015, tỷ lệ người dân sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh là 86,2%; năm 2020, tỷ lệ người dân ở các đô thị được cung cấp nước hợp vệ sinh qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 90,2%(19). Năm 2022, tỷ lệ người dân được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 98%, trong đó ở thành thị là 99,6%, ở khu vực nông thôn là 97%; tỷ lệ dân số dùng hố xí hợp vệ sinh là 96%, trong đó thành thị 99,1% và nông thôn 94%(20).
Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc bảo đảm DVXHCB ở nước ta thời gian qua còn không ít những bất cập.
Về việc làm. Chất lượng việc làm ở nước ta thấp. Người lao động làm các công việc không ổn định còn nhiều, tỷ lệ lao động trong khu vực phi chính thức lớn. Một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp rất khó khăn trong tiếp cận và tìm kiếm việc làm. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý II năm 2023 là 940,7 nghìn người, tăng 54,9 nghìn người so với quý trước và tăng 58,9 nghìn người so với cùng kỳ năm 2022(21).
Y tế. Nhìn chung, chất lượng dịch vụ y tế, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn nhiều khó khăn, có nhiều mặt bất cập. Việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ y tế cơ bản có sự chênh lệch khá lớn giữa các tỉnh, thành, các tuyến và các vùng, miền. Bên cạnh đó, hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn; công tác bảo đảm y tế dự phòng yếu về nhiều mặt(22)...
Giáo dục. Đổi mới giáo dục và đào tạo triển khai còn chậm, nhiều lúng túng trong đổi mới sách giáo khoa, đổi mới cách dạy và học; hệ thống trường lớp phân bổ chưa hợp lý, một số nơi còn thiếu, xuống cấp; tình trạng thiếu giáo viên nghiêm trọng ở một số địa phương; tỷ lệ bỏ học, tái mù chữ còn cao… nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn.
Nhà ở. Việc huy động nguồn lực hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, gia đình chính sách, công nhân, học sinh, sinh viên còn nhiều khó khăn, nhất là những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong việc huy động các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội. Tính đến tháng 5-2023, mặc dù đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng 126 dự án, quy mô xây dựng khoảng 62.700 căn hộ, với tổng diện tích 3,135 triệu m2, nhưng trên thực tế chỉ mới đáp ứng được gần 30% nhu cầu của công nhân lao động, người có thu nhập thấp(23).
Vệ sinh môi trường và nước sạch. Công tác bảo vệ môi trường và cung cấp nước sạch ở nhiều địa phương còn bộc lộ những hạn chế. Việc quản lý và xử lý chất thải rắn ở đô thị, rác thải ở khu vực nông thôn còn lỏng lẻo, ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, các nhà máy sản xuất công nghiệp ngày càng gia tăng; nước thải sinh hoạt phát sinh tại các khu đô thị, dân cư tập trung chưa được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn, dẫn đến chất lượng không khí có dấu hiệu suy giảm, môi trường nước ở một số đô thị bị ô nhiễm.
Bên cạnh đó, nhiều công trình cung cấp nước sạch ở các địa phương, nhất là khu vực nông thôn đã sử dụng nhiều năm, đang xuống cấp. Ở khu vực nông thôn, vẫn còn tới 3% người dân chưa được sử dụng nước hợp vệ sinh.
3. Một số giải pháp bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển các loại hình DVXHCB
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, Đảng ta luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người dân được làm giàu hợp pháp, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo; lãnh đạo xây dựng “triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”; lãnh đạo việc “Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”(24), trong đó ưu tiên các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, việc làm, y tế, văn hóa - thông tin, thể dục, thể thao…; lãnh đạo xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phong phú, trọng tâm, phát triển mạnh hơn bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đa dạng hóa cứu trợ xã hội…
Quan điểm trên của Đảng cần được quán triệt đến các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với bảo đảm các DVXHCB còn thể hiện ở khâu lãnh đạo đấu tranh loại trừ những tiêu cực, như: vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà, sách nhiễu cho nhân dân; các hoạt động lợi dụng lĩnh vực DVXHCB để lừa đảo, chụp giật, thao túng các hoạt động dịch vụ xã hội để thu lợi bất chính...
Thứ hai, phát huy vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong hoạch định chính sách và tổ chức cung ứng các DVXHCB
Thông qua các thiết chế xã hội, cơ quan quản lý nhà nước phải tạo ra những tiền đề, điều kiện tốt nhất cho sự phát triển các DVXHCB, đáp ứng nhu cầu cho nhân dân, đặc biệt là những hộ nghèo, gia đình chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn, để hiện thực hóa mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Nhà nước cần xây dựng phương hướng tổng thể phát triển các loại hình DVXHCB, bao hàm cả DVXHCB công và tư; quy hoạch phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền theo hướng tập trung phát huy thế mạnh của mỗi nơi, không bình quân, dàn trải, không rập khuôn giữa địa phương, giữa các ngành với nhau. Phải trên cơ sở điều tra, nghiên cứu, nắm chắc nhu cầu của các tầng lớp nhân dân, nhất là những tiêu chí mức độ thiếu hụt các DVXHCB theo Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27-01-2021 của Chính phủ quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025, để quy hoạch phát triển dịch vụ nhằm bảo đảm cung ứng DVXHCB theo đúng yêu cầu của xã hội.
Thứ ba, bảo đảm nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng để phát triển các DVXHCB
Để phát triển các hợp phần của DVXHCB có quy mô rộng, chất lượng cao, phù hợp với xu hướng phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển các DVXHCB. Nguồn nhân lực cần có chất lượng cao, đủ số lượng, cơ cấu hợp lý. Để đạt được mục tiêu này, phát triển nguồn nhân lực (bao gồm nhân lực lãnh đạo, quản lý; chuyên môn, nghiệp vụ; trực tiếp sản xuất các loại dịch vụ) phải được tiến hành thường xuyên, đi trước một bước trên cơ sở dự báo nhu cầu nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần phục vụ khách hàng là một đòi hỏi nghiêm ngặt của lĩnh vực dịch vụ xã hội. Vì vậy, coi trọng và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, tác phong làm việc là vấn đề phải chú trọng trong cung ứng DVXHCB.
Thứ tư, huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức xã hội trong bảo đảm các DVXHCB
Các tổ chức xã hội ở nước ta mang tính rộng lớn, đa dạng, phong phú, bao gồm: tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội theo lứa tuổi, ngành nghề, sở thích, tín ngưỡng, tôn giáo, vùng miền, quan hệ dòng họ, học tập… Do vậy, cần huy động tiềm năng của các tổ chức xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xã hội hóa cung ứng các DVXHCB. Đó cũng là bước cụ thể hóa Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24-6-2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới, theo hướng “Huy động các cá nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng tham gia cung cấp dịch vụ gia đình và chăm lo giúp đỡ, hỗ trợ các gia đình nghèo, khó khăn; bảo đảm gia đình được tiếp cận DVXHCB công bằng, bình đẳng, thuận lợi”(25).
Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội để tiến hành giám sát và phản biện xã hội trong thực thi các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong cung ứng DVXHCB từ giai đoạn hoạch định cho đến quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, các tổ chức xã hội phải là người bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các thành viên: “Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động… đại diện và bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên”(26).
Thứ năm, chủ động và tích cực hợp tác quốc tế để bảo đảm các DVXHCB
Để hội nhập quốc tế sâu rộng hơn nữa trong phát triển các loại hình DVXHCB, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để thu hút các nhà đầu tư từ các nước phát triển vào phát triển dịch vụ xã hội ở nước ta. Ưu tiên cho giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa và giải trí…, là những lĩnh vực nước ta còn nhiều khó khăn.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho phát triển DVXHCB. Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách để khuyến khích du học, cử các đoàn khảo sát, trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài. Phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo, giao lưu, thi tay nghề, thao diễn kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm... góp phần nâng cao năng lực và trình độ phát triển, cung ứng các loại hình DVXHCB đa dạng, phong phú.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2023
Ngày nhận bài: 27-9-2023; Ngày bình duyệt: 05-12-2023; Ngày duyệt đăng: 20-12-2023.
(1) Đỗ Thị Hải Hà: Bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới, Đề tài khoa học cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2020, tr.21.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.567.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần 1 (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.88.
(4) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27-9-2001 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005.
(5) Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01-6-2012 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần 2 (Đại hội X, XI, XII), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.794.
(7) Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27-01-2021 Quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn
2021-2025.
(8), (9), (10), (11), (24), (26) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.48, 149, 264, 21, 47-48, 131.
(12), (25) Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 24-6-2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới.
(13), (14), (15), (16), (20) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 2022, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2023, tr.17, 974, 19, 974, 973.
(17), (21) Tổng cục Thống kê: Báo cáo số 268/BC-TCTK Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý II và 6 tháng đầu năm 2023, Hà Nội, 2023, tr.44, 40.
(18), (19), (22) Xem ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.44, 50-51, 72.
(23) Xây dựng 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội: Vấn đề là tổ chức thực thi, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 02-5-2023.
Nguồn: Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản
TS ĐỖ VĂN TRỊNH
ThS LÊ SỸ CƯƠNG
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
TS PHẠM DUYÊN MINH
Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Tử vi vòng quay công nghệ ngày 24/2/2025: Tuổi Dậu lao đao công việc, tuổi Tý lộc ăn uống

Đà Nẵng: Doanh nghiệp xả khí thải phải kê khai, nộp phí bảo vệ môi trường

Tăng cường quản lý, bảo vệ môi trường nước

Giải pháp giảm phát thải khí nhà kính trong quản lý chất thải

Tăng cường quản lý, phòng cháy chữa cháy rừng trong năm 2025
