Quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước
Đảm bảo nguồn nước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội Nước là tài sản “càng ngày càng có giá trị” cần sử dụng có trách nhiệm, tiết kiệm |
Việt Nam hiện có 3.450 con sông, suối có tổng chiều dài từ 10km trở lên, với tổng lượng nước khoảng 7.936 tỷ m3, trung bình cả năm 936.000 tỷ m3. Với lượng tài nguyên như vậy, nếu xét theo bình quân đầu người, Việt Nam không phải quốc gia thiếu nước. Tuy nhiên, xét về sản lượng nước nội sinh chỉ chiếm khoảng 40%, và 60% xuất phát từ nước ngoài, Việt Nam đang là quốc gia thiếu nước khi chỉ đạt 4.421 m3/người/năm, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm.
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước: biến đổi khí hậu dẫn đến tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước vẫn tiếp tục gia tăng. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế không ngừng dẫn đến nhu cầu nước của các ngành kinh tế-xã hội tăng lên, cũng như nhu cầu sinh hoạt dân sinh đòi hỏi phải có nguồn nước để bảo đảm cho cuộc sống và cần nhiều hơn nữa trong quá trình phát triển đời sống của con người. Việc quản lý và phát triển hiệu quả nguồn tài nguyên nước là vấn đề vô cùng quan trọng với tất cả các quốc gia trên thế giới. Vấn đề an ninh nguồn nước đã và đang được đặt ra tại nhiều quốc gia.
Trước nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước, việc triển khai đồng bộ các giải pháp quản lý, khai thác và sử dụng sẽ góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước. |
Nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, mang tính chiến lược, dài hạn và tổng thể nhằm phát triển bền vững tài nguyên nước.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo tồn tài nguyên nước, hướng tới bảo đảm an ninh nguồn nước, Bộ TN&MT đã xây dựng dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình Chính phủ trình Quốc hội. Hiện nay, dự thảo Luật đang được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XV. Dự án Luật không chỉ được cộng đồng các doanh nghiệp mong đợi mà còn được cơ quan Nhà nước các cấp quan tâm bởi sự kỳ vọng vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) được xây dựng trên cơ sở tổng kết Luật Tài nguyên nước 2012. So với Luật 2012, Dự thảo Luật giữ nguyên 9 điều, sửa đổi bổ sung 59 điều, bổ sung 15 điều, bãi bỏ 13 điều như vậy cơ bản đã sửa đổi so với luật cũ. Mục tiêu của dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.
Bộ trưởng Bộ TN&MT khẳng định, việc sửa đổi Luật Tài nguyên nước nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng về quản lý, sử dụng, đặc biệt là an ninh nguồn nước trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động rất lớn đến Việt Nam. Việc sửa đổi luật cũng giúp chủ động trong việc tích nước, đảm bảo đủ nước, cấp nước sinh hoạt cho sinh hoạt và sản xuất.
Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) cho biết, thực trạng quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập. Thứ nhất, có sự giao thoa chồng chéo. Trên một dòng sông có rất nhiều bộ, ngành quản lý, nhiều đạo luật có phạm vi điều chỉnh liên quan đến dòng sông. Vì vậy, công tác triển khai sẽ giảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý.
Bên cạnh đó, Luật Tài nguyên nước năm 1998 và năm 2012 thiếu hẳn khung pháp lý về an ninh nguồn nước. Với bối cảnh tài nguyên nước chịu nhiều áp lực nền, cộng thêm việc chưa có cơ chế rõ ràng để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên nước trong bối cảnh điều kiện - nguồn lực đầu tư cho ngành nước cực kỳ hạn chế.
Thứ hai, việc sử dụng nước không hiệu quả và việc chưa tính toán đầy đủ giá trị của tài nguyên nước trong các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Khâu thực thi pháp luật ở địa phương còn chưa nghiêm và nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và chưa đúng các quy định về pháp luật. Vì vậy, vấn đề sửa đổi hệ thống pháp luật về tài nguyên nước là rất cấp bách.
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 900 hệ thống công trình thủy lợi với khoảng 70.000 công trình gồm 6.750 hồ chứa nước, gần 20.000 trạm bơm, gần 300.000 km kênh mương và hàng chục nghìn km đê sông, đê biển. Việc quản lý nhà nước từ quy hoạch, điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ phát triển thủy lợi chiếm một tỷ lệ rất lớn trong quản lý nguồn nước. Do vậy, nếu không làm rõ và phân định chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động do sự chồng chéo về nhiệm vụ.
Việc phân định chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước được nhấn mạnh trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). |
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ bổ sung các quy định: Đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; làm rõ các hoạt động ưu tiên xã hội hóa, chính sách xã hội hoá trong bảo vệ, phát triển tài nguyên nước; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế;...
Cụ thể, Dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của Nhà nước.
Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy,...); đồng thời, giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các Luật. Quy định trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hòa, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng...
Nguồn:Quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước