Cần lộ trình phù hợp trong chu kỳ kiểm định khí thải phương tiện giao thông
Theo thống kê của Cục Cảnh sát giao thông, hiện nay số lượng mô tô, xe máy ở Việt Nam có khoảng 60 triệu xe. Với số lượng phương tiện lớn như vậy việc kiểm soát khí thải là bài toán cực kỳ nan giải và ảnh hưởng rất lớn đến nhiều người dân (đặc biệt người có thu nhập thấp). Chính vì vậy, các cơ quan cần nghiên cứu kỹ, thận trọng, đánh giá tác động để đưa ra lộ trình cho phù hợp.
Những năm qua, Việt Nam có nhiều nỗ lực để kiểm soát phát thải độc hại từ các phương tiện giao thông. Tuy nhiên, để thực hiện việc kiểm định khí thải, nhất là đối với xe máy là một bài toán cực kỳ thử thách, bởi lượng xe máy ở Việt Nam rất lớn. Việc xây dựng mạng lưới kiểm định mất gần 30 năm mới được gần 300 trạm. Còn lượng xe máy gấp 10 lần ô tô, dù kiểm định đơn giản hơn nhưng tỷ lệ tương ứng để phủ rộng giai đoạn đầu cũng cần hàng nghìn cơ sở tham gia kiểm định. Theo Cục Đăng kiểm Việt Nam, chu kỳ kiểm định khí thải được thực hiện cụ thể với 3 mốc thời gian.
Đối với các xe mô tô, xe gắn máy có thời gian tính từ năm sản xuất đến 5 năm, chủ xe không phải nộp hồ sơ kiểm định khí thải và không phải mang xe đến cơ sở đăng kiểm để kiểm định khí thải. Chu kỳ trên 5 năm đến 12 năm chu kỳ kiểm định khí thải là 24 tháng một lần.
Chu kỳ trên 12 năm kỳ kiểm định khí thải là 12 tháng một lần. Đối với kiểm định lần đầu, Viện Khoa học và công nghệ giao thông vận tải đã khảo sát thực tế kiểm tra khí thải cho khoảng 20.000 xe mô tô xe gắn máy tại 3 thành phố lớn, gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Kết quả kiểm tra cho thấy đối với các xe mô tô, xe gắn máy có thời gian sử dụng dưới 5 năm (tính theo năm sản xuất, đến thời điểm thực hiện kiểm tra khí thải) mức phát thải chất gây ô nhiễm (HC, CO; theo TCVN 6438:2018) hầu như có sự thay đổi không lớn, có thể đáp ứng các mức tiêu chuẩn khí thải tại TCVN 6438:2018.
Đối với các xe có thời gian sử dụng trên 5 năm, phát thải chất gây ô nhiễm có sự gia tăng đáng kể, phụ thuộc vào chế độ bảo dưỡng và tần suất sử dụng phương tiện của chủ xe. Theo kết quả khảo sát số km trung bình 1 ngày, tần suất sử dụng trung bình, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học và công nghệ giao thông vận tải đề xuất chu kỳ kiểm định khí thải đối với xe mô tô, xe gắn máy trên 5 năm là 2 năm.
Đối với xe mô tô, xe gắn máy quá cũ (thời gian sử dụng trên 12 năm), kết quả kiểm tra thực tế cho thấy tỷ lệ phát thải chất gây ô nhiễm tăng cao. Để phòng ngừa việc phát thải chất gây ô nhiễm cần thực hiện việc kiểm tra khí thải hàng năm, với chu kỳ kiểm định 12 tháng. Cục Đăng kiểm Việt Nam nhận định, chu kỳ kiểm định như vậy nhằm nâng cao ý thức bảo dưỡng phương tiện.
Mặt khác, việc quy định chu kỳ kiểm định ngắn hơn đối với xe có thời gian sử dụng cao, tạo động lực chuyển đổi phương tiện, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường không khí, đặc biệt là tại các đô thị. Về phía Viện Khoa học và công nghệ giao thông vận tải cho hay, chu kỳ này dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu, đánh giá thực tế cùng với việc tham khảo việc áp dụng chu kỳ kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy của các nước trên thế giới đang áp dụng hiệu quả, như: Nhật Bản, Thái Lan,...Đây cũng là giải pháp căn cơ để giảm nguy cơ ùn tắc phương tiện kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy về chuẩn bị cơ sở pháp lý, vật chất kỹ thuật, phát triển các cơ sở kiểm định khí thải.
Việc kiểm định khí thải phương tiện giao thông, nhất là xe máy, cần có lộ trình phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân. (Ảnh minh hoạ: BCP). |
Đồng thời là giải pháp về chính sách nhằm giảm số lượng xe phải đến cơ sở kiểm định khí thải; giải pháp rút ngắn thời gian kiểm định khí thải: giải pháp về lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải phù hợp; giải pháp về chu kỳ kiểm định khí thải phù hợp. Trước đó, ngày 15/11/2024, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ký ban hành Thông tư số 47/2015/TT-BGTVT quy định trình tự, thủ tục kiểm định, miễn kiểm định lần đầu cho xe cơ giới, xe máy chuyên dùng; trình tự, thủ tục chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới cải tạo, xe máy chuyên dùng cải tạo; trình tự, thủ tục kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy được ban hành. Tại thông tư này quy định trình tự, thủ tục kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy.
Đây là nội dung mới được thực hiện theo nhiệm vụ quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 42 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ giao, Bộ Giao thông vận tải xây dựng quy định về trình tự, thủ tục kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy để sẵn sàng cho việc thực hiện kiểm định khí thải xe mô tô, xe gắn máy khi lộ trình áp dụng mức kiểm soát khí thải xe mô tô, xe gắn máy lưu hành được Thủ tướng Chính phủ ban hành; trình tự, thủ tục và nội dung, quy trình kiểm tra, được quy định theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Theo khảo sát, một xe máy di chuyển quãng đường trung bình 16,7km/ngày, tương đương với 6.095km/năm, tiêu thụ nhiên liệu trung bình 0,0236 lít/km. Nếu thực hiện bảo dưỡng định kỳ theo khuyến cáo, mức tiêu thụ nhiên liệu bình quân của mỗi xe tiết kiệm được 10,07 lít/năm.
Nếu tính trên toàn TP Hà Nội với hơn 6,1 triệu xe máy, lượng nhiên liệu hàng năm tiết kiệm được là gần 62 triệu lít và tổng chi phí nhiên liệu tiết kiệm ước tính hơn 1,8 nghìn tỷ đồng. Việc kiểm soát khí thải mô tô, xe gắn máy còn giúp giảm 35,55% tổng lượng CO, 40% tổng lượng HC phát thải, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trước đó, Thông tư số 47/2024 của Bộ GTVT có hiệu lực từ 1/1/2025 quy định, xe mô tô, xe máy dưới 5 năm được miễn kiểm định khí thải. Đối với xe mô tô, xe gắn máy có thời gian sản xuất trên 5 năm đến 12 năm, chu kỳ kiểm định khí thải định kỳ là 24 tháng. Thời gian sản xuất trên 12 năm, chu kỳ kiểm định khí thải định kỳ là 12 tháng.
Việc triển khai kiểm định khí thải phương tiện giao thông, nhất là đối với xe gắn máy/xe máy cần phải có lộ trình phù hợp. Theo đó, lộ trình thực hiện kiểm định khí thải mô tô, xe gắn máy sẽ thực hiện theo Luật Bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, do còn chờ quyết định về lộ trình thực hiện nên việc kiểm định khí thải mô tô, xe gắn máy chưa thực hiện ngay từ 1/1/2025.
Nguồn: Cần lộ trình phù hợp trong chu kỳ kiểm định khí thải phương tiện giao thông