Hà Nội: 19°C
Thừa Thiên Huế: 18°C
TP Hồ Chí Minh: 32°C
Quảng Ninh: 14°C
Hải Phòng: 18°C

Để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ về vai trò của xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế đã từng bước tiệm cận với sự hoàn thiện. Quan điểm đúng, chủ trương phù hợp, định hướng rõ ràng nhưng quan trọng, mấu chốt nhất là tất cả phải đi vào thực tiễn, hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Trong đó, quan hệ giữa “tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa” luôn được nêu rõ trong các văn kiện của Đảng và chính sách của Nhà nước, được xem là trọng tâm hiện nay.
Xây dựng văn hóa trong Đảng trước bối cảnh, tình hình mới Các hình thức biểu hiện của văn hóa trong chính trị

Từ khóa: Văn hóa, sức mạnh nội sinh, thúc đẩy phát triển, kinh tế – xã hội.

1. Đặt vấn đề

Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt Nam, văn hóa luôn là cội nguồn sức mạnh, là nền tảng tinh thần vững chắc để dân tộc ta vượt qua muôn vàn thử thách, khó khăn để định hình bản sắc và khẳng định vị thế trên bản đồ thế giới. Tuy nhiên, bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên của hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững, văn hóa không chỉ là di sản mà còn là động lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống xã hội và xây dựng bản sắc quốc gia hiện đại. Thực tiễn là hết sức sinh động, phong phú nhưng cũng có nhiều quan hệ đa dạng và phức tạp, tất cả cần phải được xử lý thấu đáo, nhất là các mối quan hệ: Đảng lãnh đạo và Nhân dân làm chủ, hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc dân tộc, ổn định và đổi mới, kinh tế thị trường và kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa,…

2. Thực tiễn hoạt động văn hóa và vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế – xã hội qua các thời kỳ

(1) Các thành tựu xây dựng văn hóa đặt trong mối quan hệ với phát triển kinh tế

Thành quả đầu tiên của lĩnh vực văn hóa là ngay từ những năm đầu của cách mạng, tư tưởng trong Đề cương Văn hóa năm 1943 đã phát huy được vai trò, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến năm 1975, văn hóa cách mạng tiếp tục có những đóng góp to lớn, tạo nên sức mạnh tinh thần mạnh mẽ để toàn thể dân tộc vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh trong các cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Đất nước, xã hội và con người có nhiều đổi mới.

Sự đổi mới rõ nhất, tạo thành bước ngoặt mang tính lịch sử là từ năm 1986. Đổi mới về tư duy kinh tế và chính trị, Đảng đã có những thức nhận mới về văn hóa, thể hiện ở việc: (1) Đề cao vai trò của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, phê phán quan niệm khá phổ biến trước đây xem văn hóa là hoạt động phi sản xuất, có tính tiêu dùng hoặc chỉ là phương tiện giản đơn nhằm tuyên truyền cho chính trị. (2) Xác định rõ hơn vị trí, vai trò và nhiệm vụ xây dựng văn hóa gắn với phát triển kinh tế, xã hội và con người. (3) Tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa của thời đại trên nền tảng văn hóa dân tộc.

Quan điểm và đường hướng về văn hóa cùng với đó là tư duy về kinh tế cũng như mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế ngày càng được bổ sung đầy đủ và hoàn chỉnh.

Trong hành trình gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, hơn 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội (2011 – 2020) đang thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 -2030 với chủ đề chiến lược: khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại.

Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế đã bước đầu thực hiện được công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, như: nhà máy phân bố khắp mọi miền; nông nghiệp tăng năng suất, có của ăn của để và xuất khẩu; ngư nghiệp, lâm nghiệp từng bước được quy hoạch, có sản phẩm xuất khẩu; cảng biển, sân bay, hạ tầng giao thông ngày càng quy mô hiện đại; máy móc, công nghệ đã từng bước thay thế lao động thủ công thô sơ; thời đại doanh nhân – doanh nghiệp và dịch vụ lên ngôi, đóng vai trò chủ đạo; năng suất lao động tăng; tài sản xã hội, của tập thể tăng nhanh, có tích lũy và xuất khẩu… Những thành quả đó góp phần quyết định đưa nước ta từ một nước nghèo (trước đổi mới) thành một trong những quốc gia thóat nghèo, các thành quả ấy thể hiện rõ nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay là: (1) Tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người tăng lũy tiến hằng năm. (2) Đời sống vật chất của xã hội được cải thiện, kinh tế tư nhân phát triển. (3) Sự lên ngôi của dịch vụ, vai trò của doanh nhân doanh nghiệp, ưu thế của công nghệ thông tin. (4) Một thời đại mới đang mở ra và nước ta đang tiệm cận thời kỳ công nghiệp 4.0: kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức, kinh tế số,…

Song hành với phát triển kinh tế là sự phát triển một số phương diện về văn hóa. Các thành tựu rõ nhất của văn hóa Việt Nam hiện nay thể hiện ở 5 điểm: (1) Đã xây dựng và định hình được một nền văn hóa đậm đà tính dân tộc trong sự tiếp biến văn hóa nhân loại. (2) Đời sống văn hóa tinh thần xã hội có nhiều khởi sắc, phong phú. (3) Các luật định, thiết chế văn hóa ngày càng đi vào thực tiễn. (4) Bước đầu đã có sự đồng bộ giữa phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa (rõ nhất là xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh). (5) Tạo nên động lực mạnh mẽ, đồng thời cũng là biểu trưng rõ nhất cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Những thành tựu kinh tế và văn hóa kể trên đã kéo theo một hiệu ứng tích cực lan tỏa trong xã hội. Phát triển kinh tế với bệ đỡ văn hóa là hai trụ cột chính đã góp phần đưa Việt Nam lên một tầm bậc mới.

(2) Những bất cập, hạn chế trong phát triển kinh tế và văn hóa hiện nay

Những năm qua kinh tế Việt Nam tăng trưởng và có những bước tiến vượt bậc ở nhiều lĩnh vực, nhất là nâng cao đời sống của người dân. Đại đa số người dân không chỉ “có cơm ăn áo mặc, được học hành” mà còn tiến dần đến giai đoạn ăn ngon, mặc đẹp, ai cũng được học hành, phấn đấu không ai bị bỏ lại phía sau. So với những thành quả đạt được trong lĩnh vực kinh tế thì xây dựng văn hóa hiện nay còn đi chậm, đi sau một bước; văn hóa chưa song hành, tạo sức mạnh nội sinh trong xây dựng xã hội nên nhìn chung kinh tế phát triển nhanh nhưng có phần nóng, phụ thuộc vào xu thế, chưa thực sự bền vững. Lĩnh vực văn hóa, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn.

Bất cập giữa tăng trưởng kinh tế với suy giảm về văn hóa ứng xử trong xã hội. Văn hóa ứng xử xã hội là mối quan hệ giữa con người với con người, bao gồm: thái độ, đạo đức và trách nhiệm của mỗi người và cộng đồng trong xã hội nói chung. Bên cạnh những mặt tích cực, đời sống vật chất của xã hội tăng lên song về văn hóa xã hội lại có tình trạng suy giảm. Thể hiện rõ nhất là sự thực thi pháp luật không nghiêm (tham nhũng, vi phạm pháp luật ở nhiều lĩnh vực), tính trung thực chưa được coi trọng (chạy theo thành tích, làm dối), tình người phôi phai (thờ ơ, vô cảm), đạo đức xã hội xuống cấp rất đáng lo ngại (thể hiện trong tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm và nhiều mối quan hệ xã hội khác); xã hội nảy sinh hiện tượng “Phú quý sinh lễ nghĩa” (liên hoan, tiệc tùng lãng phí tràn lan, hiếu hỉ phô trương tốn kém, nghi lễ chùa chiền và lễ hội bùng phát và biến tướng).

Sự hưởng thụ thành quả văn hóa giữa các vùng miền, giữa giàu và nghèo, thành thị với nông thôn, ở miền xuôi với miền ngược có khoảng cách ngày càng lớn… An ninh trật tự bên cạnh sự ổn định về chính trị xã hội lại có những diễn biến phức tạp mới, nhiều tiêu cực, tệ nạn phát sinh, như: ma túy, cờ bạc, lừa đảo, bạo lực, cướp giật, đua đòi… An toàn sức khỏe của người tiêu dùng trong một xã hội dịch vụ phát triển, bên cạnh mặt tích cực lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ cao, trong đó phải kể đến tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng tràn lan; thực phẩm dồi dào nhưng khâu vệ sinh an toàn thực phẩm không được bảo đảm; tuổi thọ tăng cao nhưng xã hội cũng phát sinh nhiều dịch bệnh, bệnh tật nan y hoặc phổ biến (ung thư, tiểu đường, gút, trầm cảm…).

Bất cập giữa chú trọng phát triển kinh tế với sự xem nhẹ văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên. Trong thực tiễn, việc xây dựng kinh tế đã bước đầu có chú ý đến không gian xã hội, không gian tự nhiên nhưng chưa thực sự đồng bộ và triệt để. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Thực tế là rừng núi bị chặt phá, sông biển bị nạo vét, khóang sản nước ngầm bị đào bới bừa bãi, đất đai nông nghiệp sử dụng không đúng mục đích, tự phát, bất chấp quy hoạch và quy định của pháp luật. Các nhà máy, bệnh viện, các vùng dân cư hằng ngày thải ra môi trường nhiều chất thải độc hại làm ô nhiễm nguồn nước và không khí, hiện trạng này chưa được kiểm soát một cách nghiêm ngặt. Nhiều hội chứng: thủy điện, đền chùa, bến cảng, sân bay, khu du lịch… đua nhau xây dựng không tính đến quy luật cân đối và hợp lý cung – cầu, làm trầm trọng thêm sự quá sức chịu đựng của “Mẹ Thiên nhiên”.

Hiện nay, Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước kém nhất về chỉ số chất lượng cuộc sống (thứ 48) và môi trường, khí hậu (thứ 49) đặt ra mối quan tâm lớn đối với người nước ngoài ở Việt Nam. Hơn một nửa trong số họ (53%) không hài lòng với môi trường đô thị, cao hơn gấp ba lần mức trung bình toàn cầu (17%)1.

Sự bất cập giữa nhu cầu đòi hỏi hưởng thụ văn hóa xã hội và đầu tư cho phát triển văn hóa. Nhu cầu giải trí là rất lớn nhưng hiện nay có tình trạng: thành phố thì ô nhiễm nặng, chưa bảo đảm tiêu chí “xanh – sạch – đẹp”, quy hoạch thiếu đồng bộ,… Ở các khu công nghiệp, hiện có khoảng 5 triệu người lao động nhưng đại đa số hầu như chưa hưởng phúc lợi văn hóa (khảo sát của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho thấy, hơn 60% công nhân không xem ti vi, nghe đài; 85% không đọc sách, báo; 80% không tập thể dục, thể thao thường xuyên; 65% không tham gia vào các hoạt động văn nghệ quần chúng2. Nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng kháng chiến trước đây, đời sống kinh tế còn khó khăn, sự hưởng thụ văn hóa còn rất nghèo nàn, đơn điệu. Nhiều nơi hầu như không có sân chơi dành cho người dân sau lao động, mọi sự giải trí thư giãn chỉ thu hẹp trong gia đình hoặc quán xá, vắng bóng các trò chơi truyền thống…

Nhu cầu du lịch càng ngày càng tăng, nhưng nhìn chung đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế (thiên nhiên tươi đẹp, an ninh bảo đảm, giá cả bình dân, đặc sản độc đáo…). Phần lớn ngành Du lịch chú trọng khai thác thiên nhiên, đặc sản vùng miền hay các sự kiện lịch sử mà chưa chú trọng đầu tư hệ thống, còn nhiều hạn chế ở các mặt: cơ sở hạ tầng chưa tốt, thiếu điểm nhấn thực sự ấn tượng, sản phẩm dịch vụ chưa hấp dẫn, quảng bá du lịch chưa được chú ý, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm, môi trường còn ô nhiễm nặng, ứng xử với du khách chưa đúng mực (chèo kéo, câu khách, ép giá)…

Một trong những vấn đề đặt ra nữa là đời sống tâm linh, văn hóa tâm linh trở thành một xu thế của xã hội hiện đại. Nhưng lĩnh vực này vẫn chưa có một thiết chế rõ ràng và đồng bộ. Hiện nay chùa, đền, lăng, miếu… xây dựng khắp nơi nhưng là lĩnh vực chưa được hướng đạo chính tâm, nhiều nơi chưa trở thành địa chỉ thực sự cho con người tìm đến dưỡng tâm và gửi gắm niềm tin, thậm chí nhiều địa điểm đang bị thương mại hóa, thực dụng hóa, chuyển thành mê tín dị đoan.

Hậu sự – mồ mả cũng là vấn đề lớn thể hiện tính nhân bản của chế độ, của văn hóa ứng xử xã hội và văn hóa ứng xử môi trường. Song việc quy hoạch và đầu tư cho vấn đề lớn ấy để xây dựng công trình dịch vụ cho người già, an dưỡng đường, công viên vĩnh hằng chưa được quan tâm đúng mức. Lăng mộ nghĩa trang thiếu quy hoạch.

Sự bất cập về đầu tư giữa kinh tế và văn hóa. Các lĩnh vực đầu tư cho văn hóa phân bố ở diện rộng và dàn trải. Ở lĩnh vực con người là: bồi dưỡng tư tưởng, nhận thức, tri thức, giá trị, kỹ năng và bồi dưỡng thể lực, tầm vóc, trí tuệ; ở lĩnh vực văn hóa là đầu tư cho các hạng mục: bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc, xây dựng thiết chế văn hóa các cấp, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo, hoạt động của các bộ môn văn hóa nghệ thuật,… đầu tư cho các lĩnh vực trên là cần thiết nhưng do nhiều hạng mục dàn trải nên hiệu quả chỉ ở mức trung bình (nặng về bề nổi như: giải trí, hội thi, đền chùa..); có nhiều lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, rõ nhất là nguồn nhân lực của văn hóa và khoa học – công nghệ tuy được xác định là then chốt nhưng vẫn tồn tại nhiều nhược điểm cố hữu. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ, cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, yếu kém, thiếu kế hoạch dài hạn, thiếu phối hợp giữa đào tạo và sử dụng, chất lượng đào tạo còn thấp, lãng phí, nhiều thầy ít thợ,… Đội ngũ làm công tác văn hóa từ cấp trung ương đến cơ sở tuy đông nhưng không mạnh, trong số đó, nhất là tuyến cơ sở, chưa tinh thông nghiệp vụ chuyên môn.

Sự bất cập giữa phát triển kinh tế và xây dựng văn hóa trong hội nhập quốc tế.Kinh tế nước ta, qua đổi mới đã mở cửa và nhanh chóng chuyển dịch từ nền kinh tế tiểu nông, bao cấp thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều tín hiệu khởi sắc, hiệu quả và tích cực khi kinh tế nước ta hội nhập với thế giới. Những thành tựu quan trọng vừa qua là kết quả của sự chuyển dịch và định hướng ấy. Trong khi đó, mặt văn hóa xã hội, khi hội nhập với thế giới, bên cạnh mặt phát triển thì lại nổi lên khá rõ thực trạng, nhiều giá trị truyền thống (văn hóa nội sinh) bị phai nhạt, các trào lưu mới của phương Tây lại có dịp ùa vào khá nhanh, có cả “gió lành và gió độc”. Hậu quả là: trong xã hội, hiện tượng khá phổ biến là tâm lý sùng ngoại, tư tưởng thực dụng, cá nhân vị kỷ, hành xử bạo lực, cấu trúc và quan hệ gia đình biến động, môi trường sư phạm xuống cấp…

Xu hướng phủ nhận các giá trị của văn hóa truyền thống và văn học cách mạng khá rõ. Các loại văn hóa phẩm độc hại xâm nhập vào xã hội và các gia đình; các ngày lễ hội của nước ta không được giới trẻ đón nhận hồ hởi (như hội Đền Hùng, hội Gò Đống Đa, Hội Lim … hay các lễ Cầu ngư, Tịch điền, mừng lúa mới…) mà lại hướng đến các hiện tượng ngoại lai xa lạ (hội Halloween, ngày vía Thần tài và nhiều cuộc thi sắc đẹp bị biến tướng, thương mại hóa).

3. Một số nguyên nhân

a. Về khách quan

Kinh tế và văn hóa là hai trụ cột chính và là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cả hai cùng song hành tồn tại trong xã hội loài người từ xa xưa đến ngày nay, không ngừng biến đổi và phát triển ngày càng phong phú, sinh động. Kinh tế và văn hóa có những điểm tương đồng (đều do con người tạo ra, con người là chủ thể và cũng là đối tượng của văn hóa và kinh tế, không thể thiếu trong đời sống xã hội) nhưng cũng có nhiều điểm dị biệt giữa chúng. Văn hóa là sản phẩm tinh thần – ở chiều sâu, còn kinh tế là sản phẩm vật chất – ở bề nổi; văn hóa kết tinh các giá trị xã hội, còn kinh tế thiên về trình độ kĩ thuật, công nghệ của thời đại; văn hóa có thể định tính còn kinh tế là định lượng; văn hóa là sự đa dạng không phân biệt cao thấp còn kinh tế có thể phân biệt cao thấp, lạc hậu hay hiện đại; văn hóa mang đặc thù dân tộc còn kinh tế lại tích hợp dân tộc và quốc tế; văn hóa về tổng thể mang tính ổn định lâu dài còn kinh tế mang tính khả biến. Bởi vậy, văn hóa cơ bản là phát triển tuần tự tiệm tiến. Còn kinh tế trên cơ sở cái ban đầu lại có thể tăng trưởng nhanh chóng, tiếp nhận và đổi mới, tốc độ phát triển có thể nhảy vọt, đột biến…

Những đặc thù trên chính là nguyên nhân khách quan dẫn đến sự phát triển theo những cách thức và hiệu quả vừa thống nhất vừa khác biệt giữa kinh tế và văn hóa. Ở các quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng sở dĩ có hiện trạng phát triển không đồng đều giữa kinh tế và văn hóa, trước hết là do đặc trưng bản thể của mỗi phạm trù như vậy. Chúng ta không đòi hỏi văn hóa phải có tốc độ tăng trưởng như kinh tế; có những mặt phải bảo đảm tính dân tộc (như đạo đức, tình cảm, nhân cách), có những mặt cần phát triển tương xứng kinh tế (đầu tư cơ sở vật chất, nguồn nhân lực…). Do đó, vấn đề là phải tạo ra được mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù ấy trong thực tiễn đời sống xã hội.

Nói cách khác, kinh tế và văn hóa có quan hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Khi đời sống vật chất của xã hội được cải thiện thì đời sống tinh thần theo đó cũng được nâng lên; văn hóa là “hàn thử biểu” của một xã hội, là nguồn lực nội sinh làm động lực cho kinh tế và các mặt khác (chính trị, an ninh quốc phòng) trong xã hội, khi tất cả phát triển chứng tỏ kinh tế xã hội phát triển và ngược lại. Kinh tế phát triển đầu tư cho văn hóa, văn hóa phát triển lại làm nền tảng vững chắc cho kinh tế, an sinh xã hội. Nếu hai mặt này không có tác động tương hỗ chứng tỏ có một sự bất cập nào đó, có thể do chính sách hay thực thi hoặc cả hai. Điều đó lại do nguyên nhân chủ quan.

b. Về chủ quan

Một là, việc nhận thức về vai trò của văn hóa trong xây dựng con người và phát triển đất nước một cách bền vững còn phiến diện. Vai trò của văn hóa là: đánh dấu bản sắc của dân tộc; nền tảng tinh thần xuyên suốt, bệ đỡ bền vững cho mọi sự xây dựng và phát triển xã hội; điều tiết các quan hệ xã hội và xây dựng nhân cách (phẩm chất – năng lực) con người… Nếu không nhận thức đầy đủ vai trò ấy thì lý luận và thực tiễn về văn hóa chưa thực sự đầy đủ xứng tầm. Tình trạng văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế, chính trị nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, hạn chế, yếu kém. Điều đó dẫn đến rất nhiều hệ quả. Rõ nhất là kinh tế tăng trưởng nhưng văn hóa vẫn đi “bên lề” của cuộc sống bởi xem hoạt động văn hóa chỉ ở bề nổi, hình thức, là “thêm” vào các hoạt động khác. Đó là một trong những căn nguyên của nhiều hệ lụy kéo theo, như tình trạng “vô văn hóa” (với rất nhiều biểu hiện khác nhau) xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, trong đó có thái độ làm việc hời hợt.

Hai, các chủ trương và kế hoạch của Đảng và Nhà nước chưa được thấm nhuần và triển khai và thực thi đầy đủ trong thực tiễn. Dẫn đến tình trạng việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ. Khâu tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển con người và văn hóa trong thực tiễn còn nhiều hạn chế, lúng túng. Sự nhận thức và thực thi chậm dẫn đến khâu đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải và hiệu quả chưa cao; chưa xác định rõ những trọng tâm cần đột phá (những mặt mà xã hội cần, cuộc sống đòi hỏi), chỉ chú trọng bề nổi mà thiếu chiều sâu trong xây dựng con người và môi trường văn hóa.

Ba, đội ngũ làm công tác văn hóa từ cấp trung ương đến cơ sở đông nhưng không đồng đều, dàn trải ở nhiều lĩnh vực; có nơi thừa về số lượng mà thiếu về chất lượng về chuyên môn, nghiệp vụ. Một số đơn vị bố trí phân công người quản lý, phụ trách văn hóa chưa đúng chuyên môn; công tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng.

Đó là những nguyên nhân chính liên quan trực tiếp đến thực trạng bất cập giữa tăng trưởng kinh tế với suy giảm về văn hóa ứng xử trong xã hội và tự nhiên, giữa nhu cầu hưởng thụ văn hóa xã hội và đầu tư cho phát triển văn hóa và giữa phát triển kinh tế và xây dựng văn hóa khi hội nhập quốc tế.

4. Các giải pháp cụ thể

Thứ nhất, để xây dựng con người và văn hóa Việt Nam cần phải cập nhật, nâng lên và đổi mới quan điểm, tư tưởng và tầm nhìn về vai trò và sứ mệnh của văn hóa được thể chế bằng chủ trương, quyết sách đóng vai trò quyết định. Đất nước và xã hội đã thay đổi. Phải thấm nhuần hơn nữa tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và định hướng của Đảng: văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội là bốn trụ cột của phát triển bền vững, có vị trí ngang nhau và được “coi trọng ngang nhau”. Mấu chốt nhất là từ chủ trương đúng phải kịp thời triển khai hiệu quả trong thực tiễn.

Thứ hai, để xây dựng con người trong xã hội hiện đại thì khâu đầu tiên là phải quan tâm đến chất lượng đội ngũ làm văn hóa hiện đại, có chuyên môn, nghiệp vụ xứng tầm. Nguồn nhân lực ấy là đội ngũ lãnh đạo, quản lý, là những người làm văn hóa ở các cấp từ trung ương đến cơ sở. Muốn có nguồn lực ấy thì phải đào tạo, bồi dưỡng bài bản và hệ thống. Người làm văn hóa không phải chỉ có trình độ mà phải có tâm, sâu sát thực tiễn.

Thứ ba, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và môi trường văn hóa lành mạnh là hai trong các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước.

Về chiến lược xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, ngoài những nhiệm vụ khác (như nâng cao thể chất, ý chí lập thân lập nghiệp…), cần tập trung thực hiện ba trọng tâm: giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống; chọn lọc, tiếp nhận và khẳng định những giá trị mới đang hình thành; xây dựng chuẩn mực và hệ giá trị xã hội và con người Việt Nam, trong đó vừa chú trong căn cốt dân tộc vừa tiếp biến hiện đại. Ba trọng tâm này phải tiến hành đồng thời và hệ thống. Xây dựng con người Việt Nam hiện nay cần chú trọng nhất là mặt nhân cách (bao gồm phẩm chất và năng lực mỗi người), trong đó mũi nhọn đột phá, là: kỷ cương, trung thực và đạo đức. Đó là cốt lõi của mọi chuẩn mực và giá trị khác. Các giải pháp này nhằm khắc phục thực xem nhẹ các giá trị truyền thống, lối sống thực dụng, ngoại lai, phát sinh nhiều tiêu cực, đạo đức xuống cấp…

Về nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, cần chú trọng các mũi nhọn: đẩy mạnh việc xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, gia đình hạnh phúc, môi trường xanh sạch đẹp. Đây là những mặt cốt lõi của môi trường văn hóa lành mạnh. Xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, quốc phòng an ninh và đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng nhân cách con người phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nâng cao vai trò của văn hóa, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ.

Thứ tư, quan tâm đầu tư thỏa đáng có trọng tâm trọng điểm cho xây dựng môi trường văn hóa. Con người là chủ thể của lao động, của văn hóa, đồng thời cũng là đối tượng thụ hưởng sản phẩm ấy, không ai khác. Văn hóa và kinh tế có quan hệ tương hỗ. Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đối với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Bảo đảm quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật của mỗi người dân và cộng đồng.

5. Kết luận

Thời đại ngày nay đang có nhiều thay đổi nhanh chóng về mọi mặt. Mọi sự biến động của thế giới đều có ảnh hưởng đan xen cả thuận lợi, thời cơ lẫn khó khăn, thách thức đến mọi quốc gia, trong đó có nước ta. Tình hình đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động hội nhập là giải pháp tất yếu. Có thể hình dung một thể trạng khỏe thì tiếp xúc môi trường không sợ bị nhiễm bệnh. Dó đó, khi xây dựng xã hội có được một hệ thống tự thân bao gồm: nguồn lực kinh tế nội sinh đủ giàu mạnh, nền tảng văn hóa bám rễ sâu vào căn cốt dân tộc, nội lực của xã hội và cá nhân đủ vững chắc, tất cả tạo thành “lớp áo giáp” cứng cáp thì có thể chống chịu mọi sự tác động va đập từ bên ngoài, đồng thời có thể chủ động tiếp nhận cái mới, cái tiên tiến, hòa nhập mà không hòa tan. Như thế, văn hóa mới thực sự trở thành sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, góp phần đắc lực xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, cùng tiến bước, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Chú thích:

1. Việt Nam vươn lên vị trí thứ 7 trong danh sách nơi đáng sống nhất cho người nước ngoài năm 2022. https://vnbusiness.vn/viet-nam/viet-nam-vuon-len-vi-tri-thu-7-trong-danh-sach-noi-dang-song-nhat-cho-nguoi-nuoc-ngoai-nam-2022-1086659.html.

2. Thiết chế văn hóa cho công nhân còn thiếu và yếu. https://vtv.vn/xa-hoi/thiet-che-van-hoa-cho-cong-nhan-con-thieu-va-yeu-20230501171909617.htm.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (1987). Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa”.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. H. NXB Sự thật.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB Sự thật.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

7. Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943. https://dangcong san.vn, ngày 13/4/2020.

8. Lý luận về phát triển kinh tế ở Việt Nam: Thành tựu và hạn chế. https://lyluanchinhri.vn, ngày 27/8/2019.

Nguồn: Để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội

TS. Đặng Thành Chung - Trường Đại học Điện Lực
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Thị trường chứng khoán ngày 14/3: VN Index giảm nhẹ, áp lực chốt lời vẫn hiện hữu

Thị trường chứng khoán ngày 14/3: VN Index giảm nhẹ, áp lực chốt lời vẫn hiện hữu
Thị trường chứng kiến VN Index đóng cửa gần như không thay đổi so với phiên trước. Nhóm ngân hàng và bất động sản tăng điểm đã thay thế nhóm Vin. Tuy nhiên, xu hướng điều chỉnh vẫn hiện hữu ở các nhóm ngành khác.

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 15/3/2024: Tuổi Mùi khởi sắc mạnh mẽ,

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 15/3/2024: Tuổi Mùi khởi sắc mạnh mẽ,
Những bí ẩn của khoa học đời sống là "món ăn" tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Tử vi vòng quay công nghệ xem tử vi 12 con giáp ngày 15/3/2025 cho tất cả các tuổi nhằm dự đoán vận hạn về công danh, tiền bạc, tình duyên, sức khỏe...

Nồm ẩm ở Hà Nội kéo dài đến khi nào?

Nồm ẩm ở Hà Nội kéo dài đến khi nào?
Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn Quốc gia, trước khi đón không khí lạnh hôm nay và ngày mai, thời tiết Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc Bộ tiếp tục nhiều mây, đêm và sáng có mưa nhỏ, mưa phùn và sương mù. Từ chiều 15/3, khi gió mùa đông bắc về, hiện tượng nồm ẩm sẽ giảm dần.

Dầu thô đang đứng trước ngã ba đường: Đột phá hay sụp đổ?

Dầu thô đang đứng trước ngã ba đường: Đột phá hay sụp đổ?
Sản lượng dầu thô của Mỹ dự kiến đạt kỷ lục 13,61 triệu thùng/ngày vào năm 2025, tạo áp lực nguồn cung lên thị trường. Trong khi đó, OPEC+ có kế hoạch tăng sản lượng từ tháng 4, khiến giá dầu thêm phần khó đoán và có nguy cơ biến động mạnh.

Màn đấu khẩu ‘xấu xí’ của Tottenham ở Europa League

Màn đấu khẩu ‘xấu xí’ của Tottenham ở Europa League
Bộ đôi ‘gà nhà’ James Maddison và Pedro Porro cãi nhau nảy lửa trong trận Tottenham - AZ Alkmaar tại Europa League.