Đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển công trình xanh
Công trình xanh được phát triển trên thế giới từ những năm 1990 và dần trở thành xu hướng đầu tư xây dựng, quản lý vận hành công trình ở hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ. Riêng tại Việt Nam, những công trình xanh đầu tiên bắt đầu xuất hiện vào khoảng giai đoạn từ năm 2005-2010. Đặc trưng của công trình xanh chính là sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm chi phí vận hành, giảm thiểu tác động tới môi trường trong khi vẫn đảm bảo tiện nghi cho người sử dụng và tạo điều kiện sống tốt nhất cho con người…
Các thành phố trên thế giới hiện chiếm 3% diện tích bề mặt trái đất nhưng lại chiếm hơn 70% tổng lượng khí nhà kính thải vào khí quyển. Để giữ nhiệt độ toàn cầu tăng ở mức 1,5°C hoặc thấp hơn, các thành phố phải đạt được mức phát thải ròng bằng 0. Chính phủ Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Theo Bộ Xây dựng, việc xây dựng và phát triển công trình xanh là xu thế tất yếu, không chỉ để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng Kinh tế xanh của Việt Nam, mà còn đáp ứng nhu cầu của người mua nhà.
Việt Nam hiện có trên 300 công trình xanh cho thấy cơ chế, chính sách trong việc khuyến khích phát triển công trình xanh đã bước đầu đạt được kết quả tích cực. |
Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết, trong những năm gần đây, các cơ chế, chính sách về công trình xanh đã được ban hành khá đầy đủ. Phát triển công trình xanh cũng là chỉ tiêu để đánh giá, phân loại đô thị theo Nghị quyết 26/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết 29/NQ-TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra định hướng chuyển đổi xanh nền kinh tế. Gần nhất, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược tăng trưởng xanh, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 09:2013/BXD về tiết kiệm hiệu quả năng lượng toà nhà…
Bộ trưởng Bộ Xây dựng cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Xây dựng ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26. Việc khuyến khích phát triển công trình hiệu quả năng lượng, công trình xanh cũng đã được quy định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng năm 2020 và Nghị định số 15/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý dự án đầu tư xây dựng...
Vì vậy, số lượng công trình xanh tại Việt Nam qua mỗi năm đã ghi nhận chiều hướng tăng. Cụ thể, năm 2022, Việt Nam có khoảng hơn 200 công trình xanh, sang năm 2023, Việt Nam ghi nhận hơn 300 công trình xanh. Như vậy, công trình xanh năm sau cao hơn năm trước. Điều này cho thấy các cơ chế, chính sách trong việc khuyến khích phát triển công trình xanh đã bước đầu đạt được kết quả tích cực.
Tuy nhiên, hiện không ít doanh nghiệp phân vân việc đầu tư phát triển các công trình xanh do lo ngại về chi phí tăng cao, việc tìm kiếm các vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng khó khăn và thiếu nguồn nhân lực am hiểu để phát triển. Chi phí đầu tư công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng luôn luôn là câu hỏi đầu tiên của các nhà đầu tư khi có ý định thực hiện các sản phẩm bất động sản bền vững, thân thiện môi trường. Thực tế này cho thấy chi phí đầu tư đang là một trong những yếu tố gây cản trở đến việc phát triển công trình xanh tại Việt Nam hiện nay. Vì vậy, để công trình xanh tại Việt Nam được đẩy mạnh về số lượng, cũng như đảm bảo về chất lượng, cần tìm giải pháp hóa giải các lo ngại trên.
Tháo gỡ vướng mắc về chi phí đầu tư phát triển các công trình xanh góp phần thúc đẩy phát triển bền vững các công trình xanh. |
Việc xây dựng công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng không thực sự làm tăng chi phí đầu tư nếu các chủ đầu tư biết sử dụng vật liệu xây dựng phù hợp, lựa chọn phương án tài chính hợp lý và đặc biệt là biết sử dụng mô hình dự báo vận hành công trình đúng cách, tiến tới thực hiện Net Zero Energy. Về giải pháp tổng thể trong việc hoá giải lo ngại về phát triển công trình xanh tại Việt Nam, các chuyên gia cho rằng, chủ đầu tư nên nắm rõ việc sử dụng các vật liệu xanh, vật liệu tiết kiệm năng lượng cùng với đó là hướng tới thực hiện Net Zero Energy nhằm giảm thiểu chi phí đầu tư, chi phí vận hành.
Đề cập đến vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng, chuyên gia Viện Vật liệu xây dựng cho biết, tình trạng ô nhiễm môi trường đáng báo động trong những năm gần đây khiến nhiều ngành nghề đang có xu hướng tìm đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, trong đó có ngành vật liệu xây dựng. Tại Việt Nam, nhu cầu sử dụng vật liệu cách nhiệt – vật liệu xanh đang ngày càng được quan tâm và sử dụng rộng rãi vì những lợi ích mà vật liệu này mang lại.
Theo đó, có 5 lợi ích rõ rệt từ việc sử dụng các vật liệu tiết kiệm năng lượng, bao gồm: Trang bị vật liệu cách nhiệt để không gian trở nên mát mẻ, thoáng đãng là điều hết sức cần thiết giúp duy trì sức khỏe tốt và tâm lý thoải mái; Việc trang bị vật liệu cách nhiệt giúp ngăn cản tác động của tia UV vào trong không gian của công trình xây dựng giúp bảo vệ da cũng như sức khỏe con người; Vật liệu cách nhiệt có tác dụng ngăn cản tối đa nhiệt lượng ảnh hưởng vào trong nhà từ đó giúp tiết kiệm 20 - 30% điện năng tiêu thụ mỗi tháng từ các thiết bị làm mát như quạt máy, điều hòa;
Ngoài khả năng chống nóng tốt, các loại vật liệu cách nhiệt hiện nay khá đa dạng mẫu mã giúp giữ được tính thẩm mỹ của công trình, phù hợp với nhiều vị trí khác nhau trong công trình xây dựng; và vật liệu cách nhiệt đảm bảo được các yếu tố không hút nước hoặc cản nước nên giữ được sự bền đẹp cho công trình xây dựng. Đồng thời, vật liệu này có tuổi thọ cao và có thể tái chế, không phát thải các khí độc hại ra môi trường. Đây cũng là yêu cầu cần thiết trong phát triển công trình xanh. Điều này sẽ giúp chất lượng các công trình xanh đảm bảo, đáp ứng được nhiều yêu cầu khắt khe của người tiêu dùng và đặc biệt là tiết kiệm được chi phí đầu tư, vận hành.
Để là một công trình xanh đúng nghĩa, chủ đầu tư cần xây dựng chiến lược xanh bền vững, thể hiện rõ từ khâu đầu cho đến khâu cuối trong quy trình phát triển dự án của mình. Cụ thể là từ khâu tìm kiếm đất, phát triển sản phẩm, triển khai sản xuất, triển khai bán hàng, vận hành quản lý sau bán hàng cho đến khâu cuối cùng là quản lý sản phẩm khi đi vào sử dụng.
Nguồn:Đồng bộ các giải pháp thúc đẩy phát triển công trình xanh