Giải pháp bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Mỹ - EU đối thoại về tác động của biến đổi khí hậu tới an ninh Nền sản xuất công nghiệp - mục tiêu công nghiệp hóa bảo đảm quốc phòng và an ninh kinh tế |
1. Đặt vấn đề
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam mang lại nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc bảo đảm an ninh văn hóa. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo trong quản lý văn hóa để bảo đảm rằng, Việt Nam vẫn giữ được bản sắc và giá trị văn hóa riêng, đồng thời, tận dụng được những cơ hội phát triển từ sự giao thương văn hóa quốc tế. Để giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, hoàn thành mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì bên cạnh việc quan tâm phát triển văn hóa, cần phải bảo đảm an ninh văn hóa.
2. Về bảo đảm an ninh văn hóa và phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ở Việt Nam
An ninh văn hóa là sự ổn định và phát triển của nền văn hóa dân tộc theo hướng khoa học, dân chủ, tiến bộ, nhân văn, bảo đảm quyền văn hóa của người dân, chống lại các phản văn hóa, phản giá trị; góp phần xây dựng văn hóa lành mạnh làm nền tảng và động lực cho an ninh quốc gia và sự phát triển bền vững của quốc gia dân tộc; kiểm soát chặt chẽ quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế về văn hóa, đấu tranh chống lại các phản văn hóa, phản giá trị, phản nhân văn.
Với “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030” Đảng và Nhà nước ta đã liên tục thực hiện nhiều nỗ lực để bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Duy trì và bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa, và nghệ thuật truyền thống. Thường xuyên tổ chức các sự kiện, triển lãm, và hợp tác với cộng đồng quốc tế để tăng cường giao lưu văn hóa và tạo cơ hội cho người Việt Nam hiểu biết và học hỏi từ các nền văn hóa khác. Tích cực đào tạo về giáo dục văn hóa để tăng cường hiểu biết và ý thức văn hóa trong cộng đồng. Hỗ trợ sự phát triển của nghệ thuật và văn hóa đương đại, tạo điều kiện cho sự sáng tạo và đổi mới. Các biện pháp quản lý thông tin và truyền thông được áp dụng để bảo đảm rằng thông tin văn hóa được truyền đạt một cách tích cực và không tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đối với giáo dục và giá trị văn hóa. Thường xuyên hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực văn hóa để chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi và thúc đẩy giao lưu văn hóa. Việt Nam đã phát triển và áp dụng các chính sách và chiến lược nhằm bảo đảm an ninh văn hóa và phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nguy cơ mất ổn định, “biến dạng” các giá trị, chuẩn mực của nền văn hóa Việt Nam đang rất hiện hữu. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế làm gia tăng nguy cơ “xâm lăng văn hóa”, phai nhạt bản sắc văn hóa dân tộc. Một số nước lớn có lợi thế về vốn, công nghệ đã triệt để lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa”, làm phai nhạt các giá trị truyền thống của các dân tộc khác. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới thế hệ trẻ. Chúng ta cũng đang gặp những thách thức về việc đánh mất bản sắc văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc.
Nhiều mặt phản văn hóa đã dễ dàng vượt qua biên giới quốc gia để thâm nhập vào nước ta, tạo ra trong một bộ phận giới trẻ, quần chúng, cán bộ trong hệ thống chính trị tạo tâm lý hưởng thụ vật chất, sùng ngoại, thay đổi quan niệm về văn hóa truyền thống. Quá trình này làm cho lối sống tư bản có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm đảo lộn các giá trị văn hóa, lối sống xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch tận dụng toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, phá hoại văn hóa – tư tưởng bằng cách truyền bá, phổ biến các loại tư tưởng, các sản phẩm văn hóa phản động, độc hại, lấn át các giá trị văn hóa dân tộc; gieo rắc và khuyến khích các tệ nạn xã hội phát triển nhằm từng bước hủy hoại sức sống văn hóa dân tộc; tạo mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm họ dần xa rời, phủ nhận các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng.
Ở Việt Nam, với những đặc thù về thể chế chính trị, kinh tế, nội dung và nhiệm vụ chủ yếu của việc bảo đảm an ninh văn hóa, bao gồm: “1- Duy trì và phổ biến ý thức hệ (nền tảng tư tưởng) của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa quốc gia; 2 – Giữ gìn, kế thùa và phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc; 3 – Sáng tạo, phổ biến, truyền bá văn hóa theo định hướng tư tưởng của Đảng, thể chế, luật pháp của Nhà nước và truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; 4 – Đấu tranh có hiệu quả chống các sản phẩm văn hóa độc hại, sai trái, sự phá hoại về tư tưởng – văn hóa của các thế lực thù địch và tình trạng mất trật tự an ninh trong các hoạt động văn hóa của con người, của công dân”1.
3. Một số giải pháp trọng tâm đề ra và triển khai thực hiện
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa.
Đây là giải pháp quan trọng nhất để giành thắng lợi trong việc bảo đảm an ninh văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là tập trung xác định đường lối, chính sách theo hướng bảo đảm văn hóa phát triển đúng định hướng chính trị của, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, phát huy khả năng sáng tạo ra những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, làm hạn chế sự sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa. Phải coi trọng xây dựng vǎn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước mà nội dung quan trọng là học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông. Theo đó, các cấp, các ngành cần tập trung đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, bảo đảm phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Tăng cường xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa thật sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, đủ khả năng làm tham mưu cho các cấp có thẩm quyền thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về văn hóa. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa. Quan tâm khuyến khích đầu tư phát triển các loại hình hoạt động văn hóa lành mạnh, tốt đẹp và có chế tài nghiêm khắc với các đối tượng vi phạm quy chế hoạt động văn hóa, lợi dụng hoạt động văn hóa để chống phá Đảng và Nhà nước ta, tạo hành lang pháp lý ngăn cản sự thâm nhập của văn hóa xấu độc và hạn chế thấp nhất các kẽ hở, không để các thế lực thù địch lợi dụng.
Hai là, xây dựng bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đại hội XIII đã khẳng định “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam”2. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đầy biến động như hiện nay, dân tộc Việt Nam với tư cách một chủ thể văn hóa càng phải thể hiện rõ bản lĩnh, cốt cách, tư chất, khí phách của mình để bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó, các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương cần quan tâm đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc…, làm cho tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, thủy chung, gắn bó cộng đồng, ý thức tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, tinh thần anh dũng, sáng tạo luôn thấm sâu vào toàn bộ đời sống, hoạt động của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội, chuyển hóa thành hành động thực tiễn, chung sức, đồng lòng tạo bức tường vững chắc bảo vệ nền văn hóa dân tộc trước mưu đồ “đồng hoá” “xâm lăng” văn hóa của các thế lực thù địch.
Bên cạnh đó, cần nâng cao hàm lượng trí tuệ văn hóa cho để bản lĩnh văn hóa Việt Nam mang tầm thời đại bằng cách giáo dục – đào tạo, nâng cao dân trí. Chất lượng và hiệu quả của việc xây dựng bản lĩnh văn hóa sẽ đem lại cho con người Việt Nam khả năng phân biệt được cái giá trị, cái phản giá trị; cái cần tiếp thu, cái cần ngăn chặn trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Tạo thế chủ động trong xây dựng bản lĩnh nền văn hóa Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ bản sắc dân tộc và sự phát triển của văn hóa Việt Nam. Yêu cầu này đòi hỏi cần có sự kết hợp một cách hợp lý giữa chiến lược phát triển lâu dài với chủ trương, biện pháp trước mắt; bảo đảm sự hài hòa giữa giữ vững nguyên tắc với phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Tính nguyên tắc trong việc giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc để không trở thành bản sao văn hóa của dân tộc khác là quán triệt quan điểm giai cấp của Đảng, tạo thế chủ động và tích cực tham gia vào xu thế chung, đồng thời cần khắc phục tâm lý lo ngại hoặc tham gia giao lưu, hội nhập một cách vô nguyên tắc.
Ba là, nâng cao năng lực sáng tạo để ngày càng nắm quyền chủ động về an ninh văn hóa.
Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đó là cần tiếp tục đổi mới đường lối phát triển văn hóa dân tộc cả về lý luận lẫn thành quả sáng tạo trong thực tiễn. Muốn vậy, giới văn hóa tư tưởng, giới học thuật và giới nghệ thuật phải nỗ lực tạo ra bước chuyển thực sự quá trình đổi mới hiện nay ở nước ta.
Thực tiễn hiện nay, chúng ta đang đứng trước những nguy cơ hiện hữu, nhất là nguy cơ tụt hậu về lý luận, chưa có những bước phát triển trong tiến trình sáng tạo văn hóa. Một số theo nhưng xu hướng, trào lưu nghệ thuật, điện ảnh, phong cách ứng xử, thời trang, thẩm mỹ… của nước ngoài, không phù hợp với chuẩn mực văn hóa, giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc. Do vậy, quan tâm nâng cao năng lực sáng tạo mới trước hết phải dựa trên cơ sở kế thừa giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc và quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng phấn đấu, sáng tạo những sản phẩm văn hóa mới thể hiện tinh thần thời đại, gắn bó với đời sống nhân dân, thực tiễn đổi mới của đất nước, xu hướng vận động văn hóa của thế giới, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của các tầng lớp, thành phần trong xã hội.
Nhà nước quan tâm thực hiện quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong licnh vực văn hóa tinh thần, chú ý tăng cường đầu tư cho sáng tạo văn hóa và có chính sách phát triển ngành nghề văn hóa hướng tới “phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”3 để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta phải chủ động tiến công đề chống lại những nguy cơ, ảnh hưởng của các luồng văn hóa xấu độc, xây dựng thành công nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm an ninh văn hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc tăng cường mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế nhằm bảo đảm anh ninh văn hóa là yêu cầu, nhiệm vụ mang tính tất yếu khách quan, đồng thời cũng là giải pháp có ý nghĩa quan trọng để bảo đảm an ninh văn hóa quốc gia. Hợp tác quốc tế về bảo đảm an ninh văn hóa trước hết là nhằm thông qua con đường hợp tác, giao lưu để giới thiệu hình ảnh, đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế. Khi vượt ra khỏi, các sản phẩm văn hóa Việt Nam trở thành những đại sứ giúp cho bạn bè quốc tế hiểu biết hơn về những giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam. Hợp tác quốc tế về văn hóa tạo ra những nền tảng cho hợp tác trên các lĩnh vực về kinh tế, xã hội… Ngoài ra, còn là sự thu hút các nguồn lực quốc tế cùng tham gia phát triển văn hóa Việt Nam.
Những năm qua, việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật… có sự trợ giúp rất lớn của các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ của nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt, thông qua hợp tác quốc tế, phát triển nguồn nhân lực văn hóa, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng chính sách văn hóa quốc gia, trong phát triển các ngành nghề mũi nhọn… Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về văn hóa, đã tiệm cận hệ thống luật pháp quốc tế về văn hóa. Sự tham gia này, một mặt đáp ứng các yêu cầu có tính bắt buộc trong quá trình hội nhập, mặt khác, giúp chúng ta hiểu biết hơn về các luật chơi khi tham gia sân chơi chung toàn cầu. Đồng thời, cũng là kênh tham khảo hữu hiệu cho các cơ quan quản lý nhà nước để tham mưu cho Chính phủ ban hành các luật về văn hóa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa trên cơ sở tham chiếu luật pháp quốc tế về văn hóa thì việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa còn giúp cho chúng ta tiếp cận các giá trị văn hóa nhân loại. Các hợp tác song phương, đa phương với các quốc gia trên thế giới giúp chúng ta tăng cường sự hiểu biết về giá trị văn hóa, về những kinh nghiệm quý báu trong phát triển văn hóa của nhiều nước trên thế giới. Trong công tác bảo đảm an ninh văn hóa, hợp tác quốc tế về văn hóa còn là kênh để bảo vệ tài sản văn hóa quốc gia. Thông qua việc tham gia hệ thống pháp luật quốc tế về văn hóa, thực hiện cam kết giữa các chính phủ, có thể hạn chế nhiều hoạt động xâm phạm chủ quyền văn hóa…
4. Kết luận
An ninh văn hóa là việc bảo vệ giá trị văn hóa, truyền thống, nghệ thuật và các yếu tố văn hóa khác; duy trì môi trường văn hóa tích cực và an ninh trong cộng đồng; giáo dục văn hóa, thúc đẩy đối thoại và hiểu biết giữa các cộng đồng, và quản lý cẩn thận các vấn đề liên quan đến văn hóa; bảo vệ và tăng cường giá trị của các phương tiện văn hóa, khuyến khích sự đa dạng văn hóa, và giúp xây dựng một xã hội văn hóa mạnh mẽ và ổn định.
Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội trong việc bảo đảm an ninh văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục tìm ra sự cân bằng giữa bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và sự đổi mới để phát triển một cách bền vững trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Thực hiện đồng bộ các nội dung, giải pháp bảo đảm an ninh văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ góp phần thực hiện thắng lợi “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030” của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Chú thích:
1. Nguyễn Duy Bắc – Vũ Thị Phương Hậu (đồng chủ biên). An ninh văn hóa ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2017, tr. 32.
2, 3. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Phan Hồng Giang – Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên). Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2013.
3. Trần Ngọc Thêm. Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia, 2017.
4. Nguyễn Phú Trọng. Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bài phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Hà Nội, 2021.
5. Tác động của toàn cầu hóa đến an ninh văn hóa và ứng phó của Việt Nam. https://www.tapchicongsan.org.vn
Nguồn: Giải pháp bảo đảm an ninh văn hóa ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế