Giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi biển
Xây dựng chuỗi liên kết du lịch và nuôi trồng thủy sản trên biển Mục tiêu đến năm 2030, nghề nuôi biển đạt sản lượng 1,45 triệu tấn |
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, nuôi biển ở Việt Nam là một lĩnh vực có rất nhiều tiềm năng với diện tích mặt biển trên 1 triệu km2. Hiện nay, nuôi biển đã hình thành được một số vùng nuôi công nghiệp, đối tượng nuôi phong phú nên những tiềm năng cần được khai thác trong bối cảnh mới, đặc biệt là trước yêu cầu giảm khai thác từ biển, tăng nuôi trồng theo chuỗi khép kín.
Điều kiện tự nhiên và môi trường biển của Việt Nam khá thuận lợi cho phát triển nuôi biển công nghiệp, quy mô hàng hóa lớn. Đối tượng nuôi biển hiện cũng khá phong phú. Ngoài các loài cá biển có giá trị cao (cá chim vây vàng, cá chẽm, cá song, cá giò, cá hồng), còn có tôm hùm, nhuyễn thể, rong biển… Năm 2022, diện tích nuôi biển của nước ta đạt hơn 256.000ha, với tổng sản lượng đạt gần 750.000 tấn. Dự kiến trong năm 2023, sản lượng có thể đạt gần 800.000 tấn. Nuôi biển mang lại giá trị kinh tế lớn cho các thành phần kinh tế, đóng góp quan trọng vào mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Cục Thủy sản cho biết, diện tích nuôi trồng nhuyễn thể là lớn nhất với 57.000ha, 1 triệu m3 lồng bè, sản lượng đạt 480.000 tấn. Diện tích nuôi cá biển khoảng 11.000ha và 4 triệu m3 lồng, sản lượng 65.000 tấn. Thể tích lồng nuôi tôm hùm khoảng 4 triệu m3 lồng, sản lượng 2.500 tấn. Tổng số cơ sở nuôi biển thống kê chưa đầy đủ tính đến hết năm 2022 khoảng 7.447 cơ sở với 248.768 lồng/bè. Về phục vụ nuôi biển, có 764 cơ sở sản xuất thức ăn cho nuôi biển, trong đó có hơn 100 cơ sở sản xuất thức ăn hỗn hợp, chiếm hơn 20%. Tổng sản lượng thức ăn hỗn hợp là khoảng 35.000 tấn trong khi thức ăn tươi sống khoảng 46.000 tấn.
Thời gian qua, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành nhiều chính sách, chương trình để thúc đẩy nuôi biển phát triển. Nhờ vậy, một số bộ phận hỗ trợ ngành công nghiệp nuôi biển đã bước đầu được hình thành ở Việt Nam như: Hạ tầng vùng sản xuất giống, vùng nuôi tập trung; công nghiệp phụ trợ (thức ăn, thiết bị nuôi); công nghiệp chế biến, phát triển thị trường tiêu thụ…
Nhiều chính sách, chương trình để thúc đẩy nuôi biển phát triển đã được đẩy mạnh triển khai thời gian qua. |
Khánh Hòa là một trong những địa phương trên cả nước khai thác tiềm năng, phát huy hiệu quả nghề nuôi biển. Các đối tượng nuôi chính trên biển tại Khánh Hòa là cá chẽm, cá bớp, cá chim vây vàng, tôm hùm…; trong đó tôm hùm là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao, được khách du lịch và các thị trường nhập khẩu nước ngoài ưa thích. Diện tích nuôi biển của Việt Nam đạt 85.000 ha với 8,9 triệu m³ lồng và tổng sản lượng gần nuôi 750 nghìn tấn/năm góp phần mang lại kim ngạch xuất khẩu năm 2022 đạt 11 tỷ USD. Địa phương này có trên 97.000 lồng nuôi trồng thủy sản với sản lượng thủy sản nuôi hàng năm của tỉnh đạt khoảng 18.000 tấn, tạo việc làm cho trên 4.000 lao động nông thôn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân ven biển, góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thủy sản..
Tuy nhiên, nghề nuôi biển của Khánh Hòa chủ yếu là nuôi gần bờ; nuôi với quy mô nhỏ lẻ, vật liệu lồng bè nuôi bằng gỗ truyền thống có độ bền thấp, không ổn định, sử dụng thức ăn tươi… đang gây ô nhiễm môi trường và chồng chéo với việc sử dụng diện tích mặt nước với các ngành kinh tế khác dẫn tới hiệu quả không cao. Hơn nữa, việc quản lý con giống chưa thực sự hiệu quả, nhất là đối với con giống tôm hùm và giống nuôi biển nhập khẩu dẫn tới khó khăn trong quản lý, truy xuất nguồn gốc tôm hùm giống và sản phẩm nuôi biển đáp ứng yêu cầu thị trường hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia, phát triển ngành nuôi biển tại nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là phát triển nuôi biển công nghiệp như: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch nuôi biển chưa tốt, hoạt động nuôi tự phát, phá vỡ quy hoạch còn phổ biến dẫn đến ô nhiễm môi trường, tiêu thụ sản phẩm khó khăn, khó phát triển đồng bộ. Công nghệ sản xuất giống, quản lý sức khỏe và môi trường vùng nuôi, phòng trị bệnh trên đối tượng nuôi còn nhiều hạn chế.
Hạ tầng phục vụ nuôi biển công nghiệp, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ (hệ thống lồng nuôi; thiết bị quan trắc và giám sát môi trường, dịch bệnh; công nghệ thu hoạch và vận chuyển; công nghệ chế biến và phát triển thị trường…) chưa phát triển đồng bộ. Nguồn lực (tài chính và nhân lực) còn hạn chế. Nghiên cứu, dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi biển còn yếu…
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, đến hết năm 2018, việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản cơ bản được thực hiện theo quy định về giao đất có mặt nước ven biển, giao mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản của Luật Thủy sản năm 2003 và Luật Đất đai năm 2003, đây là cơ sở quan trọng để xây dựng mã số vùng nuôi cho lĩnh vực thủy sản. Theo số liệu báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương có biển, đến hết tháng 12/2022, việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản vẫn còn chậm, hầu như các địa phương chưa giao được khu vực biển nào để nuôi trồng thủy sản.
Nhiều tổ chức, cá nhân có nhu cầu giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản như tỉnh Quảng Ninh có 1.354 tổ chức/cá nhân, tỉnh Khánh Hòa có 1.467 tổ chức/cá nhân, tỉnh Ninh Thuận có 105 tổ chức/cá nhân đã sử dụng khu vực biển nhưng chưa được giao khu vực biển theo quy định của pháp luật về thủy sản và pháp luật về giao khu vực biển. Điều này gây ảnh hưởng đến việc đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh và nuôi biển, dẫn đến thất thu cho ngân sách Nhà nước và ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước về biển, hải đảo.
Các địa phương phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở. Ảnh: HL. |
Trước những thách trên trên, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam tham mưu cho Quốc hội phê duyệt “Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Cụ thể, tiếp tục phát triển nuôi hiệu quả các đối tượng chủ lực và các loài thủy sản có giá trị kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chủ động phát triển hệ thống sản xuất giống thủy sản chất lượng cao, ưu tiên phát triển giống các đối tượng nuôi chủ lực, giá trị kinh tế cao, các loài mới có tiềm năng. Phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, khuyến khích phát triển nuôi trồng thủy sản quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở; tạo khối lượng sản phẩm lớn phục vụ chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Ngoài ra, phát triển nuôi trồng vi tảo, rong biển phục vụ nhu cầu thực phẩm và cung cấp nguyên liệu cho các ngành kinh tế khác (mỹ phẩm, dược phẩm,...). Nuôi trồng thủy sinh vật làm cảnh, giải trí, đồ mỹ nghệ, dược phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu dùng trong và ngoài nước. Khuyến khích phát triển các mô hình nuôi trồng thủy sản áp dụng công nghệ mới, tiên tiến, giảm giá thành sản xuất, thân thiện môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; các mô hình nuôi hữu cơ, nuôi sinh thái, áp dụng các tiêu chuẩn chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (GAP) để nâng cao giá trị và phát triển bền vững.
Nâng cao năng lực quản lý và sản xuất nuôi trồng thủy sản theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong quản lý, sản xuất giống, vật tư thủy sản, phòng trừ dịch bệnh nuôi trồng thủy sản. Phát triển sinh kế bền vững của cộng đồng ngư dân gắn với nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái, nghề cá giải trí, giảm dần cường lực khai thác bảo đảm phù hợp với trữ lượng nguồn lợi thủy sản. Đầu tư, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng và dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đưa ra kiến nghị xây dựng 4 vùng không gian ven biển cho hoạt động nuôi trồng thủy sản. Cụ thể bao gồm: Vùng ven biển và biển khu vực Đồng bằng sông Hồng; Vùng ven biển và biển khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (Vùng biển Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ); Vùng ven biển và biển khu vực Đông Nam bộ; Vùng ven biển và biển khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (Vùng biển Tây Nam bộ). Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển cần xác định rõ khu vực nuôi trồng thủy sản ven biển, Bộ Nội vụ phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương có biển sớm tổ chức việc phân định ranh giới hành chính trên biển trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nguồn:Giải pháp phát triển bền vững nghề nuôi biển