Giải pháp thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo trong phân cấp, phân quyền của bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương
Thống nhất các quyết sách quan trọng của Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhiệm kỳ 2020-2025 Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản |
Từ khóa: Bộ máy hành chính nhà nước, cơ chế thực thi quyền lực chính trị, Đảng lãnh đạo, phân cấp, phân quyền.
1. Về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Trong quá trình tìm tòi đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng với những đổi mới về tư duy kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những đổi mới về tư duy chính trị, xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam. Trong đó, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng xác định là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị Việt Nam. Cơ chế này là kết quả từ sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong lịch sử, đồng thời, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong cơ chế đó, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực, phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã được chế định trong Hiến pháp.
(1) Đảng lãnh đạo
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đưa ra đường lối, chủ trương để tổ chức thực hiện chính sách;Đảng lãnh đạo việc cụ thể hóa đường lối thành chính sách, pháp luật, quyết định quản lý của Nhà nước; Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của toàn bộ hệ thống chính trị; Đảng lãnh đạo quá trình triển khai thực hiện đường lối;Đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách.
Theo Điều 4 Hiến pháp năm 2013, Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền, có vai trò then chốt trong việc xây dựng, thực thi và giám sát quyền lực nhà nước. Mặc dù Đảng không trực tiếp thay thế Nhà nước nhưng Đảng có trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước để bảo đảm các chính sách và quyết định phục vụ cho quyền lợi của Nhân dân và phát triển bền vững đất nước. Hệ thống này bảo đảm tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc quản lý và điều hành đất nước.
Một là, lãnh đạo lập hiến, lập pháp.
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo trong việc xây dựng, sửa đổi và bổ sung Hiến pháp cũng như trong việc hình thành và thông qua các đạo luật. Đảng quyết định các chủ trương, chính sách để phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu phát triển đất nước. Đảng đưa ra các chủ trương và tầm nhìn chiến lược, định hướng các vấn đề lớn như quyền con người, quyền công dân, các nguyên lý cơ bản về phát triển đất nước. Đảng chỉ đạo quá trình xây dựng Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đúng quy trình, phù hợp với các mục tiêu phát triển của Đảng và đất nước. Quốc hội là cơ quan thực hiện thông qua các đạo luật thông qua các định hướng của Đảng để bảo vệ lợi ích quốc gia và Nhân dân.
Hai là, lãnh đạo hành chính nhà nước.
Đảng lãnh đạo việc thực thi quyền hành pháp thông qua Chính phủ và các cơ quan nhà nước. Các cơ quan hành chính không chỉ thực thi pháp luật mà còn phải thực hiện các chỉ đạo và quyết định của Đảng trong việc quản lý, điều hành và phát triển kinh tế – xã hội. Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cơ quan này có nhiệm vụ triển khai các chính sách của Đảng trong thực tế, bảo đảm các hoạt động của nhà nước luôn hướng đến phục vụ lợi ích Nhân dân.
Ba là, lãnh đạo bảo đảm công lý, pháp lý trong lĩnh vực tư pháp.
Đảng lãnh đạo việc xây dựng, cải cách và thực thi hệ thống pháp luật, bảo vệ công lý và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Mặc dù các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát) độc lập trong xét xử nhưng Đảng vẫn có vai trò định hướng và kiểm tra quá trình hoạt động của hệ thống tư pháp để bảo đảm tính công bằng và hiệu quả. Đảng chỉ đạo xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của công dân, khắc phục những tồn tại trong tư pháp và bảo đảm việc thực thi pháp luật công bằng, minh bạch. Các cơ quan tư pháp phải tuân thủ các chủ trương, nghị quyết của Đảng trong việc xét xử và xử lý các vụ án. Đảng cũng đóng vai trò chủ đạo trong việc cải cách hệ thống tư pháp để nâng cao hiệu quả của công tác xét xử, cải thiện việc bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.
Bốn là, lãnh đạo bảo đảm quyền lực chính trị của Nhân dân
Một nguyên lý quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam là quyền lực thuộc về Nhân dân và Đảng lãnh đạo việc thực hiện quyền lực này thông qua các cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền lợi của Nhân dân được bảo vệ và phát triển. Đảng không trực tiếp làm thay Nhà nước trong việc thực thi quyền lực mà bảo đảm Nhà nước thực hiện quyền lực đó một cách hiệu quả và đúng đắn.
Đảng lãnh đạo Nhà nước trong việc tổ chức các công việc quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng của Nhân dân, bảo đảm quyền tham gia của công dân vào các quyết định của đất nước qua bầu cử, các hoạt động giám sát, tham gia đóng góp ý kiến cho các chính sách, pháp luật. Đảng lãnh đạo việc thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội khác nhau, đặc biệt là các nhóm yếu thế, bảo đảm công bằng xã hội và sự phát triển bền vững.
(2) Nhà nước quản lý
Nhà nước quản lý tức là Nhà nước ban hành chính sách và pháp luật, tạo khung pháp lý cho hoạt động của các tổ chức và cá nhân công dân; Nhà nước quản lý xã hội nhằm triển khai thực hiện pháp luật và chính sách, bảo đảm lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của công dân; xử lý những vi phạm pháp luật để bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân công dân. Nhà nước quản lý, thực hiện quyền lực và về thực chất cũng là thực hiện quyền lực của Nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội, ngược lại, đó là hình thức chủ yếu để Nhân dân làm chủ.
Theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ XIII – tinh thần đổi mới quản trị quốc gia, Nhà nước chuyển từ việc “quản lý” sang “quản trị”. Theo đó, để quản trị phát triển xã hội, Nhà nước càng ít can thiệp càng tốt và cần tập trung vào ba điểm: (1) Nâng cao trách nhiệm giải trình của thể chế thông qua hệ thống tiêu chí; (2) Tính minh bạch của thể chế thể hiện ở việc người dân được cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng các quy định, quyết định của cơ quan nhà nước, giảm bớt sự thiếu chắc chắn tạo cơ hội cho tham nhũng phát triển; (3) Nâng cao tính dự báo hay tính nhất quán trong việc áp dụng chính sách.
(3) Nhân dân làm chủ
Trong xu thế đổi mới quản trị quốc gia trên thế giới hiện nay, người dân ngày càng đóng vai trò quan trọng và tham gia rộng rãi hơn vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Các phương thức, hình thức để người dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta rất đa dạng, phong phú, cho phép người dân có thể biểu đạt được ý chí, nguyện vọng của mình với các cơ quan nhà nước trong việc hoạch định, thực thi, đánh giá chính sách, pháp luật. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, truyền thông báo chí đã “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và Nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội”1. Quyền làm chủ của Nhân dân không ngừng được “chú trọng thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; người đứng đầu ở nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân”2.
Sự tham gia của Nhân dân vào quyền lực chính trị là một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ. Nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, tham gia giải quyết những vấn lớn và hệ trọng của đất nước, địa phương. Để bảo đảm sự tham gia quản lý hành chính nhà nước của Nhân dân có hiệu quả, cần phải thể chế hóa các quyền lực đó một cách cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của các đại biểu Nhân dân và nâng cao hiệu quả tham gia, kiểm tra, giám sát, góp ý xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên.
Nhân dân làm chủ – yếu tố trung tâm của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của Nhân dân. Đây là bước tiến có ý nghĩa trong quá trình tìm kiếm phương thức tổ chức đời sống chính trị – xã hội tốt đẹp của nhân loại. Chính quyền Nhân dân ở Việt Nam là chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; là chính quyền do chính người dân Việt Nam dùng quyền tự do lựa chọn bằng cách bỏ phiếu tín nhiệm vào những cá nhân hay tập thể nào đó mà họ tin tưởng để thay mặt cho mình điều hành xã hội.
2. Giải pháp thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng trong phân cấp, phân quyền của bộ máy hành chính ở địa phương
Thứ nhất, thực hiện lãnh đạo phân cấp, phân quyền trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương, trước hết Đảng cần phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều.
Đảng phải khắc phục triệt để hai loại giáo điều: giáo điều thụ động và giáo điều chủ động. Có những thành phần đứng về phía giáo điều vì ngại đụng chạm, sợ bị quy chụp là thiếu lập trường, thiếu quan điểm giai cấp, buộc phải chấp nhận những luận điểm mà mình cho là không còn phù hợp, nói khác đi, không dám đấu tranh chống lại cái lỗi thời mà tuân theo “chân lý của số đông” nên gọi đây là “giáo điều thụ động”, ngoài ý muốn. Đó cũng là hậu quả của cơ chế cũ mà sự loại trừ nó đòi hỏi quá trình liên tục, bền bỉ, lâu dài. Ngoài ra, cần tính đến thứ chủ nghĩa cơ hội được ngụy trang một cách tinh vi bằng khẩu hiệu “trung thành tuyệt đối với những nguyên lý đã có sẵn” nhưng lại vì lợi ích cá nhân, sẵn sàng quy chụp người khác để đạt được mục đích chính trị. Đó là chủ nghĩa giáo điều “tự giác”; chủ thể ý thức được thế nào là giáo điều nhưng lại duy trì nó, sử dụng nó như phương tiện cần thiết cho việc đạt được mục đích. Chủ nghĩa cơ hội trong vỏ bọc “trung thành tuyệt đối” là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố: trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị và động cơ cá nhân. Một khi các yếu tố của chủ nghĩa giáo điều trong lý luận đóng vai trò định hướng đối với hoạt động thực tiễn thì hậu quả của nó là tạo nên sự ngưng đọng trong các lĩnh vực hoạt động của con người, từ kinh tế đến chính trị, xã hội. Cần phê phán không khoan nhượng những kẻ đóng vai trung thành với các nguyên lý mácxít đến mức máy móc nhưng trên thực tế mưu lợi cho mình, tìm mọi cách loại bỏ những nhân tố mới.
Trong lãnh đạo phân cấp, phân quyền để tránh giáo điều chủ nghĩa, Đảng cần có những đột phá trong lĩnh vực tư duy lý luận, trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu về vấn đề phân cấp, phân quyền nói riêng; khuyến khích tinh thần hoài nghi, phê phán, xác lập cơ chế phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng về phân cấp, phân quyền; xóa dần những vùng cấm không đáng có, chấm dứt tình trạng “bao sân” về lý luận như hiện nay; ngăn chặn những biểu hiện giáo điều lẫn không tưởng chính trị, căn bệnh cố chấp, áp đặt, lẫn chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, không chỉ chống “diễn biến hòa bình” mà cần cảnh giác đối với “tự diễn biến hòa bình” dưới những biến thái tinh vi.
Nghiên cứu tính chính đáng của phân cấp, phân quyền phải bắt đầu từ những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; quá trình nghiên cứu phải bám sát thực tiễn cuộc sống và kết quả của nghiên cứu phải có giá trị cho thực tiễn cuộc sống. Nếu nghiên cứu không lấy thực tiễn làm cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn thì nghiên cứu đó chỉ là nghiên cứu suông, vô bổ. Do đó, khi nghiên cứu vấn đề phân cấp, phân quyền phải bám sát vào thực tiễn; càng bám sát vào thực tiễn thì việc nghiên cứu mới càng có giá trị.
Thứ hai, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công tác phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương.
Để thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo trong phân cấp, phân quyền của bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương cần phải bảo đảm mọi hoạt động phát triển kinh tế – xã hội được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể, định hướng phát triển kinh tế – xã hội, Đảng cần có các chỉ thị, nghị quyết rõ ràng về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội cho từng địa phương. Chính quyền địa phương sẽ triển khai các chương trình, dự án phát triển phù hợp với thực tế nhưng phải tuân thủ những chỉ đạo của Đảng.
Hỗ trợ địa phương trong việc xây dựng các chương trình phát triển. Theo đó, Đảng chỉ đạo các cấp chính quyền, các cơ quan trung ương hỗ trợ và tư vấn cho các địa phương trong việc xây dựng các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội phù hợp với nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng vùng miền.
Thứ ba, tăng cường giám sát và kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của chính quyền địa phương.
Đảng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương để bảo đảm sự thống nhất trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể: (1) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát từ cấp trung ương đến địa phương: Các cấp ủy đảng cần thành lập các đoàn kiểm tra để giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các quyết định của Nhà nước ở địa phương. Việc giám sát này giúp kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót, vi phạm trong công tác quản lý. (2) Bảo đảm tính minh bạch và công khai, tạo ra các kênh thông tin để Nhân dân tham gia giám sát hoạt động của chính quyền địa phương. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng mà còn bảo đảm quyền lợi chính đáng của Nhân dân.
Phân cấp, phân quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc trao quyền cho các cấp chính quyền địa phương, tạo ra sự linh hoạt và hiệu quả trong quản lý. Để thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo trong phân cấp, phân quyền, cần phải xác định rõ phạm vi và giới hạn quyền lực của từng cấp chính quyền. Cần phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước ở từng cấp (tỉnh, huyện, xã). Điều này giúp tránh sự chồng chéo hoặc bỏ sót trách nhiệm giữa các cơ quan.
Để bảo đảm sự thống nhất trong quản lý hành chính nhà nước, cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền (từ trung ương đến địa phương). Đảng cần giám sát, chỉ đạo quá trình phối hợp này để đạt hiệu quả cao trong triển khai các chính sách.
Tăng cường giám sát và kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của chính quyền địa phương, cụ thể: Đảng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát thường xuyên đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương để bảo đảm sự thống nhất trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát từ cấp trung ương đến cấp địa phương. Các cấp ủy đảng cần thành lập các đoàn kiểm tra để giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các quyết định của Nhà nước ở địa phương. Việc giám sát này giúp kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót, vi phạm trong công tác quản lý. Bảo đảm tính minh bạch và công khai, tạo ra các kênh thông tin để Nhân dân tham gia giám sát hoạt động của chính quyền địa phương. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng mà còn bảo đảm quyền lợi chính đáng của Nhân dân.
Thứ tư, phát triển năng lực và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương.
Một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công trong thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo trong bộ máy hành chính nhà nước là năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể, chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các cấp chính quyền địa phương để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ; chú trọng phát triển năng lực lãnh đạo và quản lý, nâng cao khả năng phân tích, giải quyết các vấn đề của địa phương. Tạo môi trường làm việc minh bạch, công bằng, bảo đảm chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ công chức, viên chức, khuyến khích họ làm việc nhiệt tình, trách nhiệm, đồng thời có cơ chế kiểm tra, đánh giá kết quả công tác của đội ngũ này. Rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong công tác, bảo đảm cán bộ đảng viên luôn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, rèn luyện tác phong làm việc khoa học, gần dân, phục vụ dân, làm gương mẫu cho quần chúng. Cán bộ lãnh đạo cần thực hiện tự học và tự nghiên cứu để nâng cao trình độ và bản lĩnh chính trị.
Phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động và sáng tạo, Đảng viên, cán bộ lãnh đạo cần phải nắm vững các vấn đề phân cấp, phân quyền, đồng thời có sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ. Họ cần mạnh dạn quyết định và chịu trách nhiệm với quyết định của mình, tránh tình trạng thụ động chờ chỉ đạo từ trên xuống. Xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu cho cán bộ chủ chốt. Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý cho đội ngũ cán bộ chủ chốt, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cấp xã, huyện, tỉnh. Các chương trình đào tạo này cần tập trung vào các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước, phân cấp phân quyền và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Lập kế hoạch đào tạo liên tục, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải có kế hoạch học tập và nâng cao năng lực chuyên môn, chính trị trong vòng 1 – 2 năm để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý địa phương.
Thứ năm, xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền đồng bộ, triệt để.
Cơ chế phân cấp, phân quyền cần được xây dựng rõ ràng để các cơ quan hành chính cấp dưới có đủ quyền hạn và chủ động thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, các cơ quan cấp trên cần có vai trò giám sát và hỗ trợ nhưng không can thiệp quá sâu vào các quyết định của cấp dưới. Trong trường hợp có các vấn đề phát sinh trong quá trình phân cấp, phân quyền, cần có các cơ chế hỗ trợ, giải quyết kịp thời từ cấp trên. Điều này sẽ giúp tránh tình trạng xin chỉ đạo từ cấp trên khi đã có quyền hạn tự quyết.
Cần quán triệt đúng nguyên tắc: việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt nhất thì phân giao đầy đủ quyền hạn và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Các cơ quan chính quyền cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát nhưng không can thiệp, làm thay cấp dưới.Xác định rõ vị trí, tính chất của từng loại đơn vị hành chính. Đây là vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức hợp lý chính quyền địa phương.
Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo làm rõ các các vấn đề, như: (1) Căn cứ lý luận và thực tiễn nào là “căn cốt” cho việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương ở Việt Nam đáp ứng các yêu cầu về quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả trong giai đoạn hiện nay; (2) Những “điều kiện/tiền đề”, “công cụ/phương tiện” hay “phương thức” nào để thúc đẩy có hiệu quả việc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương ở Việt Nam; (3) Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về thực hiện phân cấp, phân quyền trung ương và địa phương và các bài học có giá trị tham khảo cho Việt Nam cũng như đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đảng về phân cấp, phân quyền đáp ứng yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia.
(1) Ủy quyền cho cấp xã trong việc quản lý tài chính nhỏ lẻ. Tăng cường quyền tự chủ về ngân sách cho cấp xã để các địa phương chủ động hơn trong việc đầu tư, phát triển hạ tầng, dịch vụ công. Các cấp xã có thể tự quyết định đầu tư vào các dự án quan trọng phục vụ lợi ích của cộng đồng mà không cần phải xin ý kiến cấp trên.
(2) Chuyển giao quyền hạn cho các đơn vị hành chính cấp cơ sở. Bảo đảm các quyết định có thể được thực hiện ngay tại địa phương mà không cần phải xin chỉ đạo từ cấp trên. Các cơ quan hành chính cấp xã cần có quyền tự chủ trong việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội phù hợp với đặc điểm địa phương.
(3) Tạo ra cơ chế tiếp nhận khiếu nại. Các tổ chức, như: Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải tạo ra một cơ chế dễ dàng để tiếp nhận khiếu nại, phản ánh từ Nhân dân về việc thực hiện phân cấp, phân quyền. Các khiếu nại này sẽ được xử lý kịp thời tại các cơ quan chính quyền cấp xã, không cần phải chờ đợi cấp trên.
(4) Thành lập tổ kiểm tra đặc biệt. Khi phát hiện các vấn đề phát sinh trong việc thực hiện phân cấp, phân quyền, một tổ công tác đặc biệt do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập sẽ kiểm tra và giải quyết ngay tại cơ sở.
(5) Cần thực hiện kiểm soát quyền lực của Đảng trong hoạt động phân cấp, phân quyền.
Điều quan trọng là phân quyền hoặc kiểm soát quyền lực nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực, ngăn ngừa sự chuyên quyền phải hướng tới mục đích cao cả nhất – bảo vệ tự do cho cá nhân trước sự lạm dụng quyền lực. Nếu không gắn với tự do cá nhân, phân quyền hay kiểm soát quyền lực chỉ là phương tiện giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ giới thống trị mà thôi. Cũng như nguyên tắc trên, hiệu quả kiểm soát quyền lực phải dựa trên cơ sở các cơ chế cụ thể, được luật hóa. Sự kiểm soát lạm dụng quyền lực có hiện thực và hiệu quả hay không phụ thuộc vào loại chủ thể có quyền lực, tính chất và nguồn gốc sức mạnh của quyền lực. Trong mối quan hệ giữa quyền lực và tham nhũng, có thể nói, tham nhũng bắt nguồn từ sự bất cân xứng về quyền lực, hay rõ hơn, sự độc quyền về quyền lực vốn có nguồn gốc liên quan đến công bằng xã hội, là nguyên nhân chính gây ra tham nhũng3. Vì vậy, kiểm soát tham nhũng phải can thiệp vào nguồn gốc là sự bất cân xứng về quyền lực, sự lạm dụng quyền lực.
Kiểm soát quyền lực mang nghĩa trung tính, nó không hàm ý quyền lực bị lạm dụng. Có những khái niệm khác liên quan đến kiểm soát quyền lực mà cần phải làm rõ. Ví dụ, chế ngự quyền lực, hạn chế quyền lực. Chế ngự quyền lực hàm ý tiêu cực, mang ý nghĩa là ngăn chặn, kìm chế tác hại của việc thực hiện quyền lực. Hạn chế quyền lực không chỉ mang ý nghĩa là tránh, ngăn ngừa sự lạm dụng cụ thể mà còn hàm ý chính quyền tự nó có tiềm năng vi phạm4. Tuy có sự khác biệt về nội dung các thuật ngữ, trên thực tế, việc kiểm soát quyền lực trong một số trường hợp bao hàm các hình thức chế ngự, hạn chế quyền lực vì kiểm soát quyền lực sẽ là vô nghĩa nếu không có khả năng hạn chế và chế ngự được sự lạm dụng quyền lực. Nói một cách đơn giản, kiểm soát quyền lực có nội hàm rộng hơn, không chỉ mang nghĩa tiêu cực (xem xét để ngăn chặn, xử lý những sai trái) mà còn có nghĩa tích cực (bảo đảm hoạt động quyền lực đúng mục đích, yêu cầu và hiệu quả).
Ðể kiểm soát quyền lực của Đảng, cần tập trung vào các giải pháp cốt yếu:
(1) Xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên nghiêm túc thực hiện trách nhiệm nêu gương, “người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu”. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức để Ðảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.
(2) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiệu lực, hiệu quả, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học; xây dựng được thể chế đầy đủ, chặt chẽ, làm căn cứ để thực hiện ngăn chặn tha hóa quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là Nhân dân. Công cụ kiểm soát mạnh mẽ nhất hiện nay là chế định của Hiến pháp. Vì vậy, cần có nhận thức đầy đủ, rõ ràng về các chế định của Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng; về giám sát của Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên; về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khung khổ pháp luật, về giám sát nội bộ Đảng… nhờ đó mà việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” sẽ đạt hiệu quả mong muốn.
Đảng cần chỉ đạo thành lập các cơ quan chuyên trách nhằm phòng, chống tiêu cực (trước hết là phòng chống tham nhũng) trong tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương, trong đó có hoạt động phân cấp, phân quyền. Việt Nam hiện có hệ thống cơ quan phòng, chống tham nhũng được tổ chức đa dạng từ trung ương tới địa phương, bao gồm: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; các cơ quan kiểm tra của Đảng, cơ quan thanh tra, kiểm toán, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan Thi hành án và các cơ quan tư pháp trong quân đội. Riêng đối với công tác chống tham nhũng, thực hiện Điều 83 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Việt Nam đã thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong cơ quan Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Như vậy, Việt Nam chưa thành lập một cơ quan chuyên trách riêng mà đang áp dụng mô hình đa cơ quan chống tham nhũng. Mỗi cơ quan có những chức năng khác nhau trong công tác phòng, chống tham nhũng nhưng trên thực tế, kết quả hoạt động của các cơ quan này chưa được như mong muốn, hiệu quả chưa cao.
Việc có nhiều cơ quan cùng chức năng chống tham nhũng nhưng không có chủ thể làm đầu mối chịu trách nhiệm chính nên mô hình này cũng dần bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như: hoạt động thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Cục Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đánh giá là còn hình thức, kết quả hạn chế; sự phối hợp giữa Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ với các cơ quan hữu quan còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong quan điểm xử lý án dẫn đến việc hồ sơ án tham nhũng bị trả để điều tra lại chiếm tỷ lệ cao; hoạt động phối hợp, trao đổi thông tin giữa Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, chức vụ với các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng khác cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc phát hiện tội phạm, giải quyết tin báo tố giác tội phạm về tham nhũng5… Do đó, cần thiết phải nghiên cứu xây dựng một mô hình cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng phù hợp, có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Đảng cần tạo cơ chế phản hồi từ người dân. Cụ thể: (1) Thành lập các hệ thống tiếp nhận ý kiến phản hồi từ người dân, các tổ chức quần chúng về việc thực thi phân cấp, phân quyền của các cơ quan hành chính. Điều này giúp phát hiện kịp thời các vấn đề bất cập và sửa chữa một cách minh bạch; (2) Xây dựng kênh thông tin liên lạc giữa các cấp chính quyền và người dân. Các kênh thông tin này có thể là hệ thống điện thoại, website chính thức hoặc các cuộc họp giao ban định kỳ giữa lãnh đạo địa phương và người dân, qua đó, tăng cường sự thông tin hai chiều.
3. Kết luận
Để thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo trong phân cấp, phân quyền của bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng và chính quyền các cấp. Các giải pháp được đề xuất bao gồm tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, cải cách hành chính và phát triển công nghệ thông tin cũng như xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả. Những giải pháp này sẽ góp phần làm cho bộ máy nhà nước ở địa phương hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 70, 71.
3. Michael Johnston and Scott A. Fritzen (2021). The conundrum of corruption: reform for social justice. Routledge, tr. 141.
4. Jeremy Waldron (2016). Political Theory Essays On Institutions. Harvard University Press, tr. 32.
5. Vũ Công Giao, Đỗ Thu Huyền (2018). Bàn về việc thành lập cơ quan chuyên trách phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 15 (367), tr. 25-37.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Chính phủ (2015, 2019). Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi năm 2019).
4. Chính phủ (2016). Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Quốc hội (2017). Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
7. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
8. Bùi Xuân Thanh (2011). Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị Quốc gia.
9. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
10. Đỗ Tư – Trịnh Quốc Tuấn (1998). Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. H. NXB Chính trị Quốc gia.
Lê Văn Phúc
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại TP. Hồ Chí Minh
Nguyễn Ngọc Ngân
Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Mỹ: Ban bố tình trạng khẩn cấp do cháy rừng lan rộng tại Long Island

Tăng cường năng lực ứng phó, xử lý sự cố môi trường

Bình Định: Ngư dân thả cá thể đồi mồi quý hiếm về biển

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 10/3/2025: Tuổi Thân chú ý sức khỏe, tuổi Sửu thu nhập đảm bảo

Điểm tin ngân hàng ngày 10/3: Quỹ ngoại PYN Elite Fund giảm vốn tại Sacombank xuống 5,96%
