Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa
Gìn giữ nghệ thuật hát Then đàn Tính - di sản văn hóa dân tộc Người gìn giữ ngôn ngữ và lan tỏa văn hóa Tày |
Từ khóa: Giữ gìn bản sắc; văn hóa dân tộc; toàn cầu hóa; Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Toàn cầu hóa là xu thế phát triển khách quan của thế giới, quá trình này đã và đang đem lại những thời cơ và cả những thách thức đối với sự phát triển của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức đó là sự mai một dần bản sắc văn hóa dân tộc. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh: “bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam”1 là nội dung vô cùng quan trọng, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
Lịch sử Việt Nam là những trang vàng dựng nước và giữ nước, đó là truyền thống quý báu ngàn đời nay của dân tộc ta. Để có được thành quả đất nước ngày nay một phần quan trọng là do nhân dân ta đã giữ gìn và trao truyền lại những giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp. Đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc chính là tự đánh mất độc lập, tự do và phát triển bền vững của chính mình. Vì vậy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc giúp phát huy được ý chí tự lực tự cường, từ đó thúc đẩy phát triển đất nước, khẳng định vị thế quốc gia. Nghiên cứu về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa là vấn đề mang tính thời sự cấp bách.
2. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa văn hóa “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”2. Từ đó có thể hiểu, văn hóa là những sáng tạo của con người, bao hàm các giá trị vật chất và tinh thần và tồn tại, phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người và sự tương tác giữa con người với môi trường xung quanh. Văn hóa không phải là tất cả những gì do con người tạo ra mà chỉ là những “giá trị” kết tinh hình thành nên văn hóa.
Nói đến văn hóa là nói đến bản sắc, đây chính là yếu tố giúp phân biệt được dân tộc này với mộtdân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị vật chất và tinh thần tiêu biểu cho mỗi dân tộc, phản ánh đặc điểm, diện mạo, giá trị của mỗi dân tộc. Nhờ có bản sắc văn hóa mà dân tộc ấy không bị nhầm lẫn với các dân tộc khác và vẫn giữ được nét độc đáo riêng của mình. Theo thời gian, những giá trị tốt đẹp, tiến bộ của bản sắc văn hóa dân tộc sẽ được tích lũy và dần loại bỏ những cái xấu, cái không phù hợp.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần cốt lõi của văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trong hơn bốn ngàn năm lịch sử. Bản sắc văn hóa Việt Nam tạo nên bộ mặt tinh thần vừa thống nhất mà đa dạng, muôn màu muôn vẻ cho xã hội và được lưu truyền qua ngàn đời, với những giá trị tiêu biểu là chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, sáng tạo và tư tưởng nhân nghĩa. Lịch sử đã chứng minh dù trong thời kỳ chiến tranh hay hòa bình thì các giá trị văn hóa tiêu biểu này luôn là trục kết tinh để phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc ta. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những định hướng chiến lược quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định.
3. Nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Thứ nhất, kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam.
Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải kiên cường đánh đuổi rất nhiều lần ngoại bang xâm lược, giữ vững chủ quyền quốc gia và nền độc lập của dân tộc. Có được thành tựu to lớn đó là dựa vào chủ nghĩa yêu nước – sợi chỉ đỏ xuyên suốt trang sử vàng của dân tộc ta. Ngày nay, yêu nước không chỉ là chiến thắng kẻ thù xâm lược mà còn là xây dựng và phát triển kinh tế – chính trị – xã hội của quốc gia, nâng cao năng lực sản xuất, hiệu quả lao động, tạo ra sức cạnh tranh với các quốc gia khác trên thị trường quốc tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh tinh thần yêu nước sâu sắc, Nhân dân Việt Nam với ý chí tự lực, tự cường, không lệ thuộc vào các quốc gia khác, luôn giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và quan điểm trung lập trong quan hệ quốc tế. Nếu không có ý chí tự lực tự cường thì chúng ta không thể nào bảo vệ được sự độc lập, tự do của Tổ quốc. Sau gần 40 năm đổi mới, từ một quốc gia lạc hậu nghèo nàn, đến nay, đời sống người dân đã được cải thiện đáng kể, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao và thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa.
Tinh thần đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của văn hóa Việt Nam. Đảng ta luôn đề cao vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước: “Đại đoàn kết toàn dân tộc cần lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào ta định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, giữ gìn sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội vì tương lai tươi sáng của dân tộc”3; đồng thời khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới”4. Văn kiện Đại hội Đảng XIII một lần nữa khẳng định vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự phát triển của quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”5.
Thứ ba, phát huy tư tưởng nhân nghĩa, yêu thương con người của Nhân dân ta.
Tư tưởng nhân nghĩa, yêu thương con người là đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta. Tình thương giữa con người, giữa các dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn, giúp đất nước ta vượt qua bao khó khăn, chiến thắng giặc ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt, bảo vệ sự ổn định, phồn vinh cho Tổ quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, tư tưởng này càng có vai trò quan trọng, tinh thần nhân nghĩa, yêu thương con người sẽ giúp đoàn kết các dân tộc, quốc gia khác nhau để cùng giải quyết các vấn đề chung của quốc tế, như: biến đổi khí hậu, nạn đói, dịch bệnh,… Đây không chỉ là vấn đề cấp thiếtvới dân tộc mà còn là biện chứng khách quan của sự phát triển lâu bền của Việt Nam, trở thành ý thức xã hội của Nhân dân Việt Nam và ngày càng được quan tâm chú ý.
4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Có thể thấy, việc giữ gìn bản sắc văn hóa đóng vai trò không nhỏ trong đời sống mỗi dân tộc, đặc biệt là các quốc gia với truyền thống phát triển lâu đời và đa dạng các dân tộc như Việt Nam. Bản sắc văn hóa là linh hồn, những gì tinh túy nhất giúp phân biệt nước ta với các dân tộc khác. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mang ý nghĩa thiêng liêng đối với sự phát triển đất nước. Bản sắc văn hóa dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khẳng định vị trí của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Trong truyền thống chống giặc ngoại xâm hàng nghìn năm của dân tộc, Việt Nam đã nhiều lần bị các thế lực lớn hơn đô hộ, xâm lược và tìm cách đồng hóa, thay đổi tình hình kinh tế – chính trị – xã hội biến nước ta trở thành thuộc địa, bị nô lệ, phụ thuộc, song những âm mưu của giặc ngoại xâm đã bị thất bại bởi tinh thần dân tộc, là tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam.
Xác định đúng vai trò của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết có ý nghĩa then chốt về phát triển văn hoá Việt Nam. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”6. Nghị quyết đã xác định 5 giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống.
Khẳng định một lần nữa văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” 7 và “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”8.
Quan điểm nhất quán về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”9 và coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”10. Bên cạnh đó, đề ra phương hướng “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật”11. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ toàn Đảng, toàn dân ta cần thực hiện để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, hội nhập với thế giới nhưng cũng vẫn giữ được nét văn hóa đặc trưng, giữ được hồn cốt của quốc gia.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII định hướng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”12. Theo đó, nhờ có phát triển văn hóa, biến văn hóa thành sức mạnh nội sinh, từ đó thúc đẩy kinh tế, chính trị, xã hội và các mặt khác của đất nước ngày càng đi lên. Văn hóa Việt Nam một mặt cần tiếp thu tinh hoa từ bên ngoài, mặt khác, cũng cần giữ vững bản sắc dân tộc, đặc biệt trong tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về văn hóa, tư tưởng như hiện nay. Bởi vậy, việc phát triển nền văn hoá Việt Nam trong thời gian tới mà trọng tâm là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vô cùng quan trọng.
Như vậy, trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn nhấn mạnh vai trò của giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Một quốc gia có bề dày bản sắc văn hóa dân tộc đến đâu thì sức mạnh tinh thần hùng mạnh đến đó. Có thể thấy, bản sắc văn hóa dân tộc có sức mạnh vô cùng to lớn, nếu chúng ta biết tận dụng sức mạnh của văn hóa thì Việt Nam sẽ ngày càng phát triển, bản sắc của dân tộc sẽ trở thành nền tảng tinh thần vững chắc để Việt Nam phát triển hội nhập cùng thế giới.
5. Một số giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Một là, phát triển giáo dục đất nước, nâng cao việc tuyên truyền những bản sắc dân tộc cho các thế hệ trẻ.
Toàn cầu hóa giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, thay đổi đời sống của phần lớn người dân Việt Nam, tuy nhiên cũng lối sống hưởng thụ, chạy theo vật chất, ích kỷ do kinh tế phát triển đang ngày càng phổ biến trong người dân. Trong bối cảnh đó, giáo dục văn hóa đất nước qua sách vở, các phương tiện truyền thông đại chúng, như: mạng xã hội, truyền hình, phát thanh, báo chí,… nhằm đào tạo nên những công dân có tri thức, hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc là vô cùng cần thiết. Đảng và Nhà nước cần ban hành các chính sách tăng cường phát triển giáo dục, tuyên truyền văn hóa, giáo dục đường lối cách mạng, những giá trị truyền thống của dân tộc ta để phát huy niềm tự hào dân tộc cho Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ – chủ nhân tương lai của đất nước. Khi người dân đã hiểu rõ những bản sắc văn hóa đáng quý của dân tộc như tình yêu nước, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, nhân nghĩa sẽ tích cực phát huy những giá trị tốt đẹp đó.
Bên cạnh đó cần đặc biệt coi trọng vun đắp các tài năng văn hóa để họ phát triển năng lực tham gia cống hiến giúp xây dựng nền văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú hơn. Đồng thời cần định hướng vẻ đẹp các giá trị về “Chân – Thiện – Mỹ” cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ đâu là giá trị văn hóa, truyền thống, dân tộc,… đích thực. Thông qua đó, khơi dậy tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, đoàn kết toàn dân, định hướng thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách toàn diện cho Nhân dân Việt Nam và nâng cao vẻ đẹp văn hóa nước ta trong mắt nhìn của bạn bè quốc tế.
Hai là, cân bằng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, đầu tư nguồn lực thích đáng cho văn hóa, phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”13. Do đó, cần coi phát triển văn hóa tinh thần như một động lực thúc đẩy trong quá trình phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đồng thời, bảo đảm sự thống nhất trong đầu tưkinh tế và phát triển văn hóa, văn hóa là bộ phận quan trọng phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, phải xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa với chủ đạo là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước mở rộng hội nhập quốc tế, hấp thụ những tinh hoa của văn hóa thế giới nhằm làm giàu hơn văn hóa đất nước.
Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải luôn gắn liền với phát triển hệ thống pháp luật.
Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn về phát triển văn hóa trong thời đại mới. Đồng thời, có những biện pháp bảo đảm thực hiện nghiêm quy định pháp luật trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Việc hoàn thiện các chính sách về văn hóa giúp việc giữ gìn bản sắc văn hóa được thực hiện tốt và ngăn chặn các hành vi vi phạm, thúc đẩy hành động của Nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa nước nhà.
6. Kết luận
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong đời sống xã hội là vô cùng cấp thiết. Bên cạnh những tác động tích cực mang tới cho sự phát triển Việt Nam thì toàn cầu hóa cũng đã tạo ra những thách thức không nhỏ trong việc phát triển văn hóa nước nhà. Làm thế nào để nước ta tiếp tục phát triển mà không bị “nhấn chìm” vào các nền văn hóa khác trở thành yêu cầu cấp thiết. Dưới sự tác động của toàn cầu hóa, việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Bảo tồn, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc chính là “căn cước” vững chắc để nước ta phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời, giao lưu với các nước bên ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chú thích
1, 5, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 143, 43, 143.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 458.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 41.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 159.
6, 7, 8, 9, 10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013). Văn kiện đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới và hội nhập. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 356-357, 642, 642, 738, 738, 755.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 98 – 99.
Nguồn: Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Phát huy nhân tố con người, lấy con người là trung tâm, động lực của sự phát triển trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Phần Lan đóng cửa nhà máy nhiệt điện than cuối cùng

TotalEnergies ký hợp đồng hydro xanh lớn nhất tại Đức

Miền Bắc đón không khí lạnh từ ngày 11/4, cảnh báo giông lốc và mưa đá

Công nghiệp tái chế: Nguy cơ cao mất thị phần ngay trên sân nhà
