Không thể bác bỏ giá trị thời đại lý luận của C. Mác về quá trình lưu thông tư bản
“Thời đại lớn cho ta đôi cánh" Hà Nội: Hội tụ tinh hoa truyền thống tại Lễ hội làng Yên Lộ |
![]() |
Tượng C.Mác ở Mátxcơ va_ Ảnh: baonghean.vn |
1. Đặt vấn đề
Bộ “Tư bản” của C.Mác đã trình bày rõ lý luận về chủ nghĩa tư bản (CNTB) thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước Anh. Qua đó làm rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) với tư cách là nền kinh tế thị trường (KTTT) và vạch rõ những mâu thuẫn trong lòng CNTB tất yếu sẽ thúc đẩy quá độ lên một phương thức sản xuất mới cao hơn. Đối tượng nghiên cứu của tác phẩm này là “phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy”(1) và “Mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”(2).
Trong quyển I bộ “Tư bản”, C.Mác đã làm rõ bản chất của tư bản với tư cách là quan hệ sản xuất đặc trưng, thống trị và đã luận giải cơ sở tồn tại, phát triển của tư bản là giá trị thặng dư. Trong quyển II “Quá trình lưu thông của tư bản”, C.Mác đi sâu phân tích biểu hiện của tư bản thông qua sự vận động trong nền kinh tế hàng hóa. Ở quyển II, bằng phương pháp trình bày đi từ trừu tượng đến cụ thể, C.Mác đã khái quát sự vận động của tư bản trong KTTT và toàn bộ những hình thái biểu hiện cụ thể của tư bản với tư cách là kết quả của quá trình sản xuất và lưu thông.
2. Giá trị khoa học cốt lõi của lý luận về quá trình lưu thông tư bản của C.Mác
Một là, giá trị lý luận cốt lõi về mặt chất và lượng của quá trình lưu thông tư bản
Lôgíc trình bày về sự vận động của tư bản được bắt đầu từ tư bản cá biệt với tư cách là quan hệ sản xuất đặc trưng, tới tư bản xã hội với tư cách là tổng thể các tư bản cá biệt trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Sự vận động của tư bản cá biệt được tiếp cận theo hai phương diện:
Về bản chất của quá trình lưu thông tư bản. Thông qua lý luận tuần hoàn tư bản, những biến hóa hình thái của tư bản và tuần hoàn của những biến hóa hình thái ấy gồm: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản sản xuất và tuần hoàn của tư bản hàng hóa. Từ đó, C.Mác đã chỉ ra đặc trưng ban đầu của hình thái tư bản thống trị là tư bản công nghiệp.
Ông cho rằng, hai hình thái mà giá trị tư bản biểu hiện ra trong các giai đoạn lưu thông của nó, là hình thái tư bản tiền tệ và hình thái tư bản hàng hóa; hình thái của nó trong giai đoạn sản xuất là hình thái tư bản sản xuất. Tư bản trong tiến trình tuần hoàn đầy đủ của nó lần lượt biểu hiện ra thành (khoác trên mình) 3 hình thái ấy rồi lại trút bỏ ra và trong mỗi hình thái như thế, đều hoàn thành một chức năng thích hợp với hình thái ấy, là tư bản công nghiệp. Từ công nghiệp được dùng ở đây theo ý nghĩa đã bao quát mọi ngành sản xuất kinh doanh trong nền KTTT.
Đồng thời, phân tích sự thống nhất giữa 3 hình thái của quá trình tuần hoàn đều có một điểm chung là lấy việc làm tăng giá trị làm động cơ và mục đích có tính chất quyết định, và cũng chỉ rõ các điều kiện để tư bản có thể vận động liên tục. Mặc dù quá trình tuần hoàn của tư bản là một sự đứt quãng không ngừng, nhưng sự liên tục là nét đặc trưng của nền KTTT; sự liên tục ấy là do cơ sở kỹ thuật của sản xuất TBCN quyết định, mặc dù nó không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được một cách tuyệt đối. Tất cả các bộ phận của tư bản đều lần lượt đi qua quá trình tuần hoàn, và cùng lúc nằm ở trong các giai đoạn khác nhau của quá trình ấy.
Như vậy là, khi không ngừng thực hiện tuần hoàn của nó, tư bản công nghiệp đồng thời tồn tại ở tất cả các giai đoạn của tuần hoàn đó và trong tất cả các hình thái chức năng tương ứng với các giai đoạn ấy. Đối với bộ phận tư bản lần đầu tiên chuyển hóa từ tư bản hàng hóa thành tiền thì tuần hoàn H’...H’ chỉ mới bắt đầu, trong khi đó, đối với tư bản công nghiệp với tư cách là một chỉnh thể đang vận động, thì tuần hoàn H’...H’ đã hoàn thành rồi. Bản chất của tuần hoàn là khi tay phải ứng tiền ra, thì tay trái lại thu tiền về và ngược lại: bước mở đầu của tuần hoàn T...T’ tại một điểm nào đó đồng thời cũng là sự quay trở về của tiền ở một điểm khác. Đối với tư bản sản xuất thì cũng vậy SX ... SX’.
Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp trong sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả 3 tuần hoàn của nó nữa. Nhưng nó chỉ có thể thực hiện được sự thống nhất ấy trong chừng mực mà mỗi một bộ phận khác nhau của tư bản có thể lần lượt đi qua các giai đoạn kế tiếp nhau của tuần hoàn, và chuyển từ một giai đoạn này, từ một hình thái chức năng này, sang một giai đoạn khác, một hình thái chức năng khác. Do đó, trong chừng mực mà tư bản công nghiệp, với tư cách là tổng thể của các bộ phận ấy, đồng thời xuất hiện ở các giai đoạn và các chức năng khác nhau, và do đó, tiến hành cả 3 tuần hoàn cùng một lúc. Ở đây, việc bộ phận này nối tiếp bộ phận kia là do sự tồn tại bên cạnh nhau của các bộ phận ấy quyết định, nghĩa là do sự phân chia của tư bản quyết định.
Kết luận mà C.Mác rút ra là: sự liên tục của tổng quá trình, chứ không phải sự đứt quãng đã được miêu tả ở trên, chỉ được thực hiện trong sự thống nhất của cả 3 hình thái tuần hoàn. Tổng tư bản xã hội bao giờ cũng có sự liên tục đó, và quá trình của nó bao giờ cũng là sự thống nhất cả 3 hình thái tuần hoàn.
Về mặt lượng của quá trình lưu thông tư bản được khái quát thông qua lý luận chu chuyển tư bản với các phạm trù kinh tế, coi đó là những tiêu chí để đo lường mặt lượng của quá trình lưu thông như: thời gian chu chuyển, tốc độ chu chuyển, số vòng chu chuyển và các yếu tố ảnh hưởng, như: tư bản cố định và tư bản lưu động; hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình; các bộ phận cấu thành, sự thay thế, sửa chữa, tích lũy tư bản cố định... Trong từng yếu tố cụ thể đó, C.Mác đã phân tích rất sâu các tác động khách quan và chủ quan ảnh hưởng tích cực và tiêu cực như thế nào đến thời gian chu chuyển, tốc độ chu chuyển của tư bản trong nền KTTT, từ đó ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền KTTT. Thí dụ, thời gian lưu thông của tư bản gồm thời gian bán, thời gian mua, thời gian vận chuyển... “Một phần thời gian lưu thông - phần tương đối quan trọng nhất - là thời gian bán hàng, tức là thời kỳ mà tư bản nằm trong trạng thái tư bản hàng hóa. Thời gian lưu thông, và do đó, thời kỳ chu chuyển nói chung, kéo dài ra hay rút ngắn lại là tùy theo độ dài tương đối của kỳ hạn ấy. Do những chi phí bảo quản, v.v., cho nên cũng có thể cần một chi phí tư bản phụ thêm”(3). Giả thiết mọi tình hình khác đều như nhau, thì thời kỳ bán hàng đối với cùng một tư bản cá biệt sẽ thay đổi tùy theo những thay đổi chung trong tình hình thị trường, hay tùy theo những thay đổi của tình hình trong một ngành sản xuất riêng biệt.
Nguyên nhân làm thời gian bán khác nhau chính là khoảng cách giữa sản xuất và thị trường, C.Mác viết: “Một trong những nguyên nhân thường xuyên gây ra sự khác nhau trong thời gian bán hàng, và do đó, trong thời gian chu chuyển nói chung, là khoảng cách giữa thị trường bán hàng hóa và nơi sản xuất ra hàng hóa ấy”(4).
Đặc biệt, thời gian bán liên quan đến sự phát triển của giao thông vận tải. Nếu giao thông vận tải phát triển thì rút ngắn thời gian di chuyển và như vậy thị trường xa hóa thành thị trường gần. Giao thông vận tải phát triển không chỉ tăng tốc độ di chuyển và khối lượng di chuyển mà còn làm lượng hàng hóa vận chuyển kế tiếp nhau đều đặn trong từng thời gian nhất định. C.Mác viết: “Nhưng do sự phát triển của các phương tiện giao thông vận tải và giao thông nên những sự khác nhau tương đối trong thời gian hàng hóa nằm trên đường đi có thể thay đổi khiến cho chúng không còn phù hợp với các khoảng cách địa lý nữa”(5).
C.Mác viết: “Thời gian dài ngắn khác nhau của cuộc hành trình của hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ không những quyết định những sự khác nhau trong bộ phận thứ nhất của thời gian lưu thông, tức là thời gian bán, mà còn quyết định cả những sự khác nhau trong bộ phận thứ hai, tức là trong việc chuyển hóa tiền thành các yếu tố của tư bản sản xuất, tức là trong thời gian mua”(6).
Sự khác nhau trong thời gian lưu thông: “một phần là sự khác nhau cá biệt tồn tại giữa những tư bản riêng biệt khác nhau trong cùng một ngành sản xuất, một phần là sự khác nhau tồn tại đối với những ngành khác nhau tùy theo những kỳ hạn thanh toán khác nhau, khi người ta không thanh toán ngay bằng tiền mặt, - sự khác nhau đó là do các kỳ hạn thanh toán khác nhau khi bán và mua gây nên”(7). Và “Những sự khác nhau trong thời gian chu chuyển của tư bản cũng tùy thuộc vào đại lượng của các giao kèo cung cấp hàng - đại lượng này ngày càng tăng lên cùng với khối lượng và quy mô của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”(8).
C.Mác viết: “thời gian mua, hay thời kỳ trong đó từ hình thái tiền, tư bản chuyển hóa trở lại thành những yếu tố của tư bản sản xuất. Trong thời kỳ này, nó phải nằm lại dưới trạng thái tư bản tiền tệ trong một thời gian hoặc dài hoặc ngắn; do đó một phần nhất định của tổng tư bản ứng trước phải không ngừng nằm dưới trạng thái tư bản tiền tệ, mặc dầu phần đó gồm các yếu tố luôn luôn biến đổi... Vậy là, một bộ phận nhất định trong giá trị của tư bản ứng trước lúc nào cũng nằm dưới trạng thái tư bản tiền tệ, do đó, dưới một hình thái không thuộc lĩnh vực sản xuất, mà thuộc về lĩnh vực lưu thông của tư bản”(9).
Khi nghiên cứu nửa sau của thời gian lưu thông: “trong đó tiền lại chuyển hóa trở lại thành những yếu tố của tư bản sản xuất, thì không những cần chú ý đến bản thân sự chuyển hóa ấy, không những cần chú ý đến thời gian trong đó tiền quay trở về tùy theo sự cách xa thị trường bán sản phẩm; trước hết, cũng cần chú ý đến quy mô của bộ phận tư bản ứng trước cần phải thường xuyên nằm dưới hình thái tiền, dưới trạng thái tư bản tiền tệ”(10).
Như vậy, thời gian lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình hình thị trường, quan hệ cung cầu, giá cả; khoảng cách thị trường; trình độ phát triển của giao thông vận tải... Tác động của tiến bộ kỹ thuật và nghệ thuật kinh doanh đã rút ngắn thời gian lưu thông với những biện pháp như: phát triển thị trường, phát triển giao thông vận tải, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, phát triển hệ thống maketing, cải tiến mạng lưới và phương thức bán hàng... Rút ngắn thời gian lưu thông làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm xuống, tăng được lượng tư bản đầu tư cho sản xuất. Rút ngắn thời gian lưu thông cũng làm rút ngắn thời gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất được lặp lại nhanh hơn, tạo được nhiều giá trị và giá trị thặng dư hơn, làm tăng hiệu quả của tư bản.
Kết luận mà C.Mác rút ra là: để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản, các nhà tư bản thường tìm mọi biện pháp khai thác mặt thuận lợi và hạn chế mặt không thuận lợi của những nhân tố nói trên để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hai là, giá trị lý luận cốt lõi về tái sản xuất của quá trình lưu thông tư bản
Tái sản xuất tư bản xã hội tiếp cận trên giác độ tổng thể trong nền sản xuất TBCN về thực chất là sự vận động của tư bản xã hội, nghĩa là sự vận động biện chứng của tuần hoàn của các tư bản cá biệt làm tiền đề và điều kiện cho nhau. C.Mác khái quát ý niệm về tư bản xã hội: “Do đó, tuần hoàn của những tư bản cá biệt trong sự thống nhất của chúng thành tư bản xã hội, tức là trong toàn bộ tổng thể của nó, thì không những bao gồm lưu thông của tư bản, mà còn bao gồm lưu thông chung của hàng hóa nữa”(11). Tiếp theo, sau khi nêu thế nào là vận động của tư bản xã hội thì vấn đề xuất hiện tất yếu là: vai trò của tư bản tiền tệ có ý nghĩa như thế nào trong quá trình vận động đó. Việc trả lời câu hỏi này sẽ giúp làm rõ hơn thực chất vận động của tổng tư bản xã hội và do đó hiểu rõ hơn bản chất đích thực của vận động tư bản xã hội. Vì lẽ đó mà C.Mác nêu ra mục Vai trò của tư bản tiền tệ đối với sự vận động của tư bản xã hội.
C.Mác bắt đầu trình bày học thuyết về lưu thông của tư bản xã hội từ việc nghiên cứu tái sản xuất giản đơn. Thông qua đó để thấy rõ những quy luật vận động của tư bản xã hội và sự thể hiện của các quy luật đó trong những trường hợp giả định cụ thể. Từ đó thấy được cách thức và phương pháp luận cho việc hiểu một cách bản chất những cơ sở, điều kiện cho bảo đảm tái sản xuất diễn ra một cách hài hòa và sự cân bằng tổng thể của toàn bộ nền KTTT.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, phân tích và hiểu sâu sắc về tái sản xuất giản đơn, C.Mác phân tích về tái sản xuất mở rộng để thấy rõ hơn bản chất của tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế TBCN, là: quá trình không ngừng bảo đảm sự cân đối của các khu vực trong nền kinh tế trên cơ sở cấu tạo hữu cơ của nó theo từng điều kiện cụ thể, để từ đó bảo đảm sự tái sản xuất tư bản không ngừng và tư bản hóa giá trị thặng dư không ngừng.
Việc trình bày tích lũy bằng sơ đồ, thực chất là C.Mác nêu ra những quy luật của sự vận động của tư bản xã hội. Thông qua các quy luật đó giúp hình dung được những điều kiện bảo đảm cho sự vận động đó được diễn ra một cách nhịp nhàng. Một khi vi phạm những sự nhịp nhàng đó, tất yếu khủng hoảng sẽ nổ ra. Đây chính là cơ sở khoa học để cắt nghĩa ở mức độ bản chất nhất của khủng hoảng kinh tế thông qua nghiên cứu tái sản xuất mở rộng với tư cách là hình thái của lưu thông tư bản xã hội hay lưu thông trong nền KTTT.
3. Giá trị thời đại của lý luận quá trình lưu thông tư bản
Từ khái quát những giá trị cốt lõi vừa có tính bao trùm và chuyên sâu mà C.Mác đã trình bày về lý luận quá trình lưu thông tư bản cho thấy, ngày nay, trong bối cảnh của nền KTTT hiện đại và toàn cầu hóa dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mặc dù những phương thức lưu thông đang đan xen giữa hình thức cũ và hình thức mới; lưu thông truyền thống và lưu thông hiện đại; lưu thông thực và ảo, kể cả hình thức lưu thông ảo chưa từng xuất hiện trong lịch sử phát triển của KTTT. Tuy nhiên, truy nguyên về gốc lý luận quá trình lưu thông tư bản mà C.Mác đã trình bày càng khẳng định sức sống trường tồn và giá trị thời đại, dựa vào các căn cứ sau:
Một là, giá trị thời đại lý luận về mặt chất và lượng của quá trình lưu thông tư bản
Về bản chất của quá trình lưu thông tư bản - Những giá trị thời đại:
Sự vận động về chất của tư bản đồng thời thể hiện những yêu cầu căn bản của hoạt động kinh doanh trong nền KTTT. Lý luận tuần hoàn tư bản thông qua các hình thái tư bản và tuần hoàn của các hình thái cho thấy, hoạt động kinh doanh trong nền KTTT hiện đại là sự kết hợp giữa nhiều yếu tố, nhiều khâu có quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Hoạt động kinh doanh chỉ có thể có hiệu quả khi các yếu tố của quá trình kinh doanh như tiền, các yếu tố sản xuất, hàng hóa luôn thực hiện được đầy đủ các chức năng của mình một cách kịp thời, tạo điều kiện cho các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng có thể thực hiện liên tục, không bị gián đoạn.
Để làm được việc đó, trong quá trình phát triển KTTT ở phạm vi quốc gia hay quốc tế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp trong quá trình toàn cầu hóa, đều phải nhận thức rõ các tất yếu kinh tế của quá trình kinh doanh thể hiện trong tuần hoàn của tư bản. Do vậy, lý luận tuần hoàn tư bản cũng chính là cơ sở phương pháp luận hình thành hiệu quả kinh doanh trong nền KTTT. Nhờ đó, đã tạo ra cơ sở khoa học mang tính thời đại sâu sắc cho việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các chủ thể trong phát triển nền KTTT mà bất kỳ quốc gia nào đều phải thực hiện.
Như vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong nền KTTT hiện đại với nhiều dạng thức lưu thông mới, các chủ thể kinh doanh cần vận dụng những tri thức về tuần hoàn tư bản mà C.Mác đã trình bày. Đặc biệt, trong xây dựng và thực thi các chiến lược kinh doanh cần học hỏi kinh nghiệm xây dựng kế hoạch, dự báo xu hướng biến động của thị trường và chiến lược maketing... của các doanh nghiệp đã vận dụng lý luận lưu thông tư bản của C.Mác thành công trong lịch sử.
Về mặt lượng của quá trình lưu thông tư bản - Những giá trị thời đại
Phát triển KTTT dù ở thời đại nào thì lưu thông luôn là bước nhảy nguy hiểm. Trong bối cảnh nền KTTT hiện đại thì vấn đề đẩy nhanh quá trình lưu thông càng đặc biệt quan trọng. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng được hiệu suất sử dụng tư bản và mang lại nhiều lợi nhuận cho các chủ thể kinh doanh. Từ đó, trong nền KTTT hiện đại đã xuất hiện nhiều ngành khoa học mới chuyên sâu như maketing để thực hiện các dịch vụ trước - trong và sau bán hàng, cũng vì mục đích cuối cùng là tăng tốc độ chu chuyển của tư bản như C.Mác đã đề cập.
Lý luận về chu chuyển tư bản tạo cơ sở khoa học cho nhận thức sự vận động về lượng của tư bản cá biệt với tư cách là quan hệ sản xuất đặc trưng, đặt nền móng cho nghiên cứu về cách thức nâng cao hiệu quả kinh doanh mà bất kỳ chủ thể nào cũng phải tuân thủ. Đồng thời, các phạm trù trong lý luận chu chuyển tư bản mà C.Mác đã phân tích là cơ sở khoa học căn bản để vận dụng vào phân tích, tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh trong KTTT. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản hay rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả hoạt động của tư bản.
Trước hết, nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo quản, sửa chữa tài sản cố định; giảm được hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị; có thể sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm. Sau khi khấu hao hết về mặt giá trị, mà giá trị sử dụng của máy móc, thiết bị còn sử dụng được trong sản xuất, thì đó là sự phục vụ không công của tư bản cố định như một lực lượng tự nhiên.
Tư bản cố định có quy mô rất lớn. Các chi phí bảo quản, sửa chữa, thay thế, bảo đảm điều kiện cho nó hoạt động thường tốn kém, nên việc thu hồi nhanh tư bản cố định lại càng có ý nghĩa quan trọng trong cạnh tranh. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, tư bản cố định có nguy cơ bị hao mòn. Vì vậy, phải tìm mọi cách để khấu hao tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao thường được tính rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sản phẩm mới, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm, sau đó giảm dần khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm cuối chu kỳ của nó. Quy mô sản lượng ban đầu càng lớn, càng có lợi cho việc thu hồi tư bản cố định dễ dàng.
Vì vậy, một mặt phát triển hệ thống tự động hóa linh hoạt, cùng với những máy móc, thiết bị nhất định có thể chế tạo được nhiều dạng sản phẩm, thậm chí có thể sản xuất những sản phẩm cá biệt theo đơn đặt hàng khác nhau. Mặt khác, phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa để dễ dàng đổi mới tư duy khoa học và công nghệ hiện đại cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, vẫn tiếp tục sử dụng những biện pháp như: tăng cường độ lao động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản và cải thiện điều kiện lao động của người lao động.
Thứ hai, nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản lưu động sẽ cho phép tiết kiệm tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có thể mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm nếu có điều kiện tận dụng được công suất máy móc, thiết bị... Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì phải tăng số vòng quay của vốn, giảm thời gian cần thiết cho một vòng quay, bằng cách sử dụng nhiều biện pháp như: tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn lưu động, tăng thời gian và cường độ lao động, dự trữ sản xuất hợp lý...
Thứ ba, đối với tư bản khả biến, việc nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản có ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm tăng thêm tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm. Chính tư bản khả biến (sức lao động) thực tế sử dụng trong năm mới quyết định khối lượng giá trị thặng dư (M) thu được trong năm là bao nhiêu, dù tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi.
Như vậy, giá trị thời đại về lý luận chu chuyển tư bản của C.Mác là đã trình bày một cách khoa học việc các chủ thể trong phát triển KTTT phải quay vòng vốn nhanh để thu hồi vốn nhanh hơn và tăng tỷ suất giá trị thặng dư hằng năm. Muốn quay vòng vốn nhanh thì phải tìm cách rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Quay vòng vốn nhanh sẽ giảm được chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Hai là, giá trị thời đại về quá trình lưu thông tư bản - tiếp cận từ lý luận tái sản xuất của C.Mác
C.Mác đã trình bày về tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng và các điều kiện cơ bản để quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra một cách bình thường, trôi chảy, từ đó cho thấy bản chất của sự vận động tư bản xã hội và những điều kiện để thực hiện sự vận động đó trong phát triển nền KTTT. Những điều kiện đó là cơ sở khoa học cho việc phân tích bản chất mối liên hệ giữa các khu vực (trao đổi giữa 2 khu vực và trao đổi nội bộ mỗi khu vực) trong nền KTTT hiện đại mà bất cứ quốc gia nào phát triển nền KTTT đều phải tuân thủ, coi đó là xu hướng vận động tất yếu, quy luật kinh tế khách quan. Những điều kiện cơ bản mà C.Mác đã phân tích cũng gợi mở tư duy về phát triển nền KTTT hiện đại, hội nhập nhưng vẫn giữ được độc lập, tự chủ, phải chủ động và ưu tiên phát triển khu vực I với công nghệ và nguồn vốn được coi là xương sống của nền kinh tế.
Đồng thời, thông qua phân tích về sự vận động của tư bản xã hội trong phát triển nền KTTT gợi mở những giải pháp chiến lược để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thời kỳ mới.
4. Kết luận
Trong điều kiện phát triển của nền KTTT hiện đại, với sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, gắn với kinh tế tri thức và kinh tế số..., các phương thức sản xuất, kinh doanh mới xuất hiện với nhiều biểu hiện mới và cách thức khác nhau. Từ đó, nếu chỉ quan sát bề ngoài với kết quả có tính thực dụng trước mắt các lý thuyết của kinh tế học hiện đại giúp cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh thu được lợi nhuận cao dễ gây lầm tưởng và hoài nghi lý luận về quá trình lưu thông tư bản của C.Mác. Trong đó, một số ít do không nhận thức được sâu sắc lý luận kinh tế của C.Mác cần phải trau dồi thêm bằng đào tạo và học tập có bài bản và hệ thống. Loại thứ hai, những phần tử thù địch, phản động lợi dụng sự am hiểu mập mờ, không rõ, cố tình tán dương trào lưu lý thuyết kinh tế mới, coi lý thuyết kinh tế của C.Mác là lạc hậu, lỗi thời trong điều kiện nền KTTT hiện đại.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 551 (1-2024)
Ngày nhận: 14-12-2023; Ngày bình duyệt:14-01-2024; Ngày duyệt đăng: 20-01-2024.
(1), (2) C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.19, 21.
(3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.24, sđd, tr.368, 369, 370, 373, 375, 375, 376, 378, 516.
Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình “Quá trình lưu thông của Tư bản” dùng cho hệ cao học chuyên ngành kinh tế chính trị của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Hà Nội, 2016.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Hệ lý luận cao cấp về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.
4. Lý luận của C. Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ, cơ quan chủ trì Viện Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm TS Nguyễn Minh Quang, Hà Nội, 2009.
5. Đề tài trọng điểm cấp bộ “Nhận thức giá trị kinh điển Mác - Lênin” Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2005, GS, TS Chu Văn Cấp làm chủ nhiệm.
Nguồn: Không thể bác bỏ giá trị thời đại lý luận của C. Mác về quá trình lưu thông tư bản
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Ứng phó với rét đậm, rét hại và gió mạnh trên biển

Chủ động phòng trừ sâu bệnh hại trên cây trồng

Mỹ: Cháy rừng tiếp tục bùng phát tại phía Đông Nam

Giá xăng dầu hôm nay 5/3: Tiếp tục “lao dốc”

Giá heo hơi hôm nay 5/3: Duy trì đà tăng
