Kiểm soát, giảm tiêu thụ các chất gây suy giảm tầng ozone
Cục Biến đổi khí hậu cho biết, qua 5 năm triển khai Dự án “Kế hoạch quản lý loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone giai đoạn II” (HPMP II), Việt Nam đã duy trì mức tiêu thụ cho phép dưới 2.600 tấn/năm, đáp ứng yêu cầu cam kết theo Nghị định thư Montreal. Dự án HPMP II do Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal tài trợ, ủy thác Ngân hàng Thế giới quản lý, được phê duyệt thực hiện trong giai đoạn 2018-2023.
Dự án hướng đến giúp Việt Nam giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất gây suy giảm tầng ozone (HCFC) từ 3.600 tấn/năm xuống còn 2.600 tấn/năm trong giai đoạn 2020-2024 theo lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal. Trong giai đoạn 2018-2023 vừa qua, Dự án HPMP II đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ quản lý, loại trừ các chất HCFC, tập trung vào các lĩnh vực, bao gồm: Điều hòa không khí, sản xuất thiết bị lạnh, sản xuất xốp cách nhiệt, dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa thiết bị lạnh và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ, loại trừ sử dụng các chất HCFC.
Đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cam kết giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở. Lượng nhập khẩu từ năm 2020 đều dưới 2.600 tấn/năm, qua đó đóng góp cho công tác bảo vệ tầng ozone ở Việt Nam cũng như thực hiện các mục tiêu tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal, Cụ thể, về loại trừ tiêu thụ Hydro Cloflocacbon - mã hóa học là HCFC-22 (ga lạnh R-22), Dự án HPMP II đã hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất điều hòa không khí duy nhất của Việt Nam và một số doanh nghiệp sản xuất thiết bị lạnh chuyển đổi công nghệ không sử dụng ga R-22. Từ ngày 7/1/2022, Việt Nam đã cấm nhập khẩu điều hòa không khí sử dụng ga R-22.
Việt Nam đã nỗ lực kiểm soát, hạn chế các chất làm suy giảm tầng ozone nhất là trong sản xuất thiết bị lạnh, sản xuất xốp cách nhiệt. |
Về loại trừ hoàn toàn tiêu thụ HCFC-141b (xốp cách nhiệt sử dụng polyol trộn sẵn), Dự án HPMP II đã hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi hoàn toàn sang công nghệ sử dụng cyclo pentane. Từ ngày 7/1/2023, Việt Nam đã quy định cấm nhập khẩu chất HCFC-141b trộn sẵn trong polyol. Cùng với việc giảm 35% lượng tiêu thụ cơ sở các chất HCFC trên, Việt Nam cũng đã giảm lượng phát thải khí nhà kính từ việc sử dụng các công nghệ thay thế không có tiềm năng làm suy giảm tầng ozone và tiềm năng nóng lên toàn cầu thấp. Các công nghệ thay thế trong các lĩnh vực này đều là công nghệ không làm suy giảm tầng ozone, ít phát thải (cyclo pentane, NH3, CO2).
Thông qua dự án trên, Cục Biến đổi khí hậu đã xây dựng và trình ban hành Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13334:2021 về xốp cách nhiệt polyuretan (PU) sử dụng chất trợ nở dễ cháy; yêu cầu về an toàn trong sản xuất áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất xốp cách nhiệt PU sử dụng chất trợ nở có tính cháy (Quyết định số 1500/QĐ-BKHCN ngày 8/6/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ).
Việt Nam đang triển khai các hoạt động để loại trừ hoàn toàn các chất HCFC vào năm 2040 và loại trừ dần các chất HFC tiến tới loại trừ 80% mức tiêu thụ cơ sở vào năm 2045; đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính song vẫn bảo đảm được sự phát triển của các ngành kinh tế, các lĩnh vực sản xuất. Đây là những mục tiêu đặt ra cho các nhà quản lý, nhà hoạnh định chính sách, và sự tham gia mạnh mẽ của khối tư nhân và toàn xã hội.
Cùng với việc triển khai đồng bộ các giải pháp. Chính phủ vừa ban hành Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát nhằm triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP. Kế hoạch Quốc gia đề ra mục tiêu quản lý, loại trừ hiệu quả các chất làm suy giảm tầng ozon, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal thông qua chuyển đổi công nghệ và sử dụng các chất có giá trị tiềm năng làm nóng lên toàn cầu thấp hoặc bằng “0”, triển khai các giải pháp làm mát bền vững, phấn đấu đến năm 2045 giảm phát thải 11,2 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ) từ hoạt động loại trừ các chất được kiểm soát. Các mục tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện đến năm 2045 được đề ra trong Kế hoạch, bao gồm:
Về quản lý, loại trừ các chất được kiểm soát: Thực hiện tốt cam kết không sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ các chất; sản phẩm, thiết bị có chứa hoặc sản xuất từ các chất Bromochloromethane, CTC, CFC, Halon, HBFC, Methyl chloroform, HCFC 141b và HCFC-141b trộn sẵn trong polyol; không nhập khẩu và xuất khẩu các chất HCFC khác từ năm 2040. Chỉ nhập khẩu, sử dụng chất Methyl bromide cho mục đích khử trùng và kiểm dịch hàng xuất khẩu. Giảm dần lượng tiêu thụ các chất HFC và duy trì ở mức 20% lượng tiêu thụ cơ sở từ năm 2045.
Việt Nam đang triển khai các hoạt động để loại trừ hoàn toàn các chất HCFC vào năm 2040, đóng góp cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính (Ảnh minh họa). |
Về quản lý sản phẩm, thiết bị sử dụng các chất HCFC và HFC theo giá trị tiềm năng làm nóng lên toàn cầu (GWP): Sản phẩm, thiết bị được sản xuất, nhập khẩu sử dụng các chất được kiểm soát có GWP được giảm theo lộ trình nêu tại mục III của nội dung Kế hoạch. Cải thiện hiệu suất năng lượng trung bình của thiết bị sản xuất và nhập khẩu sử dụng chất được kiểm soát vào năm 2030 phấn đấu đạt 50% so với năm 2022.
Về quản lý vòng đời các chất được kiểm soát: Các kỹ thuật viên thực hiện hoạt động lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa sản phẩm, thiết bị có chứa các chất được kiểm soát có văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận phù hợp theo quy định. Các chất được kiểm soát được thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng và tái chế đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, sau khi tái chế nếu không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật sẽ được xử lý để tiêu hủy theo quy định. Phổ biến và nhân rộng các mô hình về cơ chế tạo tín chỉ các-bon từ hoạt động tái chế và xử lý các chất được kiểm soát.
Về làm mát bền vững: Các yêu cầu về giảm hiệu ứng đảo nhiệt đô thị và chống chịu với nắng nóng cực đoan được nghiên cứu, lồng ghép trong các chương trình phát triển đô thị cấp quốc gia, cấp tỉnh, kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của quốc gia và từng địa phương, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch chuyên ngành có liên quan của tỉnh. Hoạt động làm mát bền vững được triển khai thực hiện tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I và loại II.
Các công trình xây dựng mới đạt chứng nhận công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng trong thiết kế, xây dựng và vận hành; tòa nhà xây dựng mới đạt tiêu chuẩn kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng đáp ứng mức cân bằng về năng lượng (NZEB); tăng diện tích cây xanh bình quân trên mỗi người dân đô thị. Phổ biến và nhân rộng các mô hình về làm mát bền vững, mô hình kinh doanh dịch vụ làm mát tại các khu đô thị, khu dân cư, tòa nhà văn phòng, thương mại và công trình công cộng.
Để thực hiện các mục tiêu cụ thể trên, Kế hoạch đề xuất 6 nhóm nhiệm vụ, giải pháp bao gồm: Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Tuyên truyền, phổ biến kiến thức và nâng cao nhận thức; Hợp tác song phương và đa phương, huy động nguồn lực; Giám sát, đánh giá. Kế hoạch cũng đề ra lộ trình cụ thể thực hiện theo từng giai đoạn đối với các nhóm đối tượng, nêu rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động liên quan đến các chất được kiểm soát để đạt được các mục tiêu đề ra.
Kinh phí thực hiện được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn xã hội hóa, nguồn huy động từ các Quỹ (Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ Bảo vệ môi trường và Quỹ Đầu tư phát triển cấp tỉnh), tổ chức, cá nhân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định. Khuyến khích huy động hợp tác hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, các định chế tài chính trong nước, quốc tế, khu vực tư nhân và thông qua cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon để triển khai thực hiện.
Việc tích hợp nội dung quản lý bảo vệ tầng ozon, các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal và các hoạt động làm mát bền vững là điểm tích cực của Việt Nam nhằm triển khai thực hiện đồng bộ các cam kết quốc tế, sáng kiến ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ozon và làm mát bền vững mà Việt Nam tham gia là thành viên, đóng góp hiệu quả vào thực hiện nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Việt Nam phê chuẩn tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal từ năm 1994. Bộ Tài nguyên và Môi trường với vai trò là cơ quan đầu mối quốc gia đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức tích cực triển khai và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng:
Từ năm 2010, Việt Nam đã loại trừ hoàn toàn các chất CFC, Halon, CTC; Từ năm 2015, chất Methyl Bromide chỉ được nhập khẩu cho mục đích khử trùng và kiểm dịch hàng xuất khẩu; Từ năm 2013 đến nay, các chất HCFC được quản lý, loại trừ theo lộ trình đã cam kết thông qua quản lý hạn ngạch nhập khẩu và sẽ phải dừng hoàn toàn việc nhập khẩu, sử dụng vào năm 2040. Từ năm 2024, các chất HFC bắt đầu được quản lý và loại trừ theo lộ trình thực hiện Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal mà Việt Nam phê chuẩn tham gia năm 2019.
Nguồn:Kiểm soát, giảm tiêu thụ các chất gây suy giảm tầng ozone