Hà Nội: 29°C
Thừa Thiên Huế: 28°C
TP Hồ Chí Minh: 33°C
Quảng Ninh: 28°C
Hải Phòng: 25°C

Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là sự kết hợp hài hòa giá trị dân tộc và giá trị thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước; đồng thời, kế thừa tinh hoa tư tưởng quyền con người trên thế giới, đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích làm rõ một số quan điểm về tiếp tục nghiên cứu vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình.

1. Đặt vấn đề

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là một giá trị văn hóa, lịch sử và tư tưởng quan trọng đối với Việt Nam, là một phần quan trọng trong di sản của Người để lại cho nhiều thế hệ người Việt Nam, mãi là kim chỉ nam định hướng cho hoạt động bảo đảm quyền con người ở Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì hạnh phúc của Nhân dân. Trong bối cảnh Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, công tác nghiên cứu vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chỉ Minh về quyền con người cần phải được tiến hành với tư duy mới, cách tiếp cận mới để vừa kế thừa tư duy, kinh nghiệm đã tích lũy được, vừa đổi mới mạnh mẽ, cầu thị tiếp cận, tiếp thu những tư duy mới, xu hướng phát triển mới của thời đại với tinh thần tiến cùng thời đại1. Trong đó, việc đổi mới mạnh mẽ tư duy bảo đảm quyền con người là khâu mở đầu có ý nghĩa đột phá.

2. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong kỷ nguyên mới

(1) Nhân dân là chủ thể của quyền con người và bảo đảm quyền con người.

Nhân dân là chủ thể của quyền con người và bảo đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để kết nối chặt chẽ giữa đẩy mạnh hiện đại hóa nền sản xuất xã hội (vật chất, tinh thần, con người) với phát triển theo hướng tiến bộ XHCN (tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc) nhằm tôn vinh, phát triển, phát huy phẩm giá con người và văn hóa Việt Nam lên một tầm cao mới, tiến cùng thời đại2. Yêu cầu có ý nghĩa trong kiến tạo kỷ nguyên mới là đột phá về tư duy, nhận thức nhằm tạo đột phá trong huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực còn rất nhiều tiềm năng của đất nước. Do vậy, cần phải phát huy tối ưu các động lực phát triển đất nước, đặc biệt tinh thần là chủ, làm chủ, yêu nước, đại đoàn kết và tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của mọi người dân Việt Nam; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và tính nhân văn của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

Quan điểm coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của Nhân dân”3; “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước4. Quan điểm này phù hợp với Điều 3 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”5.

Trong kỷ nguyên mới, việc bảo vệ môi trường sống, bảo vệ quyền lợi cho các thế hệ tương lai là một phần không thể thiếu trong việc thực hiện quyền con người. Quyền con người không chỉ là quyền về tự do, dân chủ mà còn phải đi đôi với việc bảo đảm quyền được phát triển về vật chất và tinh thần, quyền được tiếp cận giáo dục, y tế và các cơ hội phát triển nghề nghiệp; quyền tham gia vào các quyết định chính trị, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước là những nội dung thiết yếu cần tiếp tục thực hiện.

Trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Việt Nam cần có cơ chế, chính sách mạnh mẽ để bảo vệ quyền lợi con người, đặc biệt là bảo đảm quyền của nhóm yếu thế trong xã hội, như: phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số và người khuyết tật. Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, việc bảo vệ và thực hiện quyền con người cũng trở thành một yếu tố quan trọng để duy trì uy tín và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Do đó, cần phải chú trọng hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con người đáp ứng thực tế xã hội, chú trọng việc tạo ra những cơ hội bình đẳng và nâng cao chất lượng sống cho người dân, tạo ra một môi trường mà mỗi công dân có thể phát huy tối đa tiềm năng của mình.

(2) Quyền con người gắn với tính giai cấp và tính dân tộc.

Quá trình hình thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến toàn nhân loại chứ không phải là “phát hiện” đặc thù của riêng quốc gia nào. Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại6.

Con người luôn luôn thể hiện, khẳng định bản chất và quyền của mình thông qua các mối quan hệ xã hội cụ thể, từ quan hệ nhóm xã hội, quan hệ cộng đồng đến quan hệ trong nội bộ các giai cấp, dân tộc và giữa các giai cấp, các dân tộc; từ quan hệ sở hữu, sản xuất đến quan hệ tôn giáo, văn hóa, dân tộc và nhân loại. Vì thế, một mặt, quyền con người là một giá trị phổ quát của nhân loại, bao hàm những quyền và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác, nhân quyền còn mang tính đặc thù với mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia theo quan hệ giữa các giai cấp, trình độ phát triển kinh tế – xã hội, đặc điểm văn hoá và truyền thống dân tộc.

Tuyên bố Viên và Chương trình hành động về quyền con người năm 1993 đã khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập, không thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hoá và tôn giáo, (thì) các quốc gia, không phân biệt hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá, có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con người và các tự do cơ bản”7. Do vậy, nhất thiết không thể đối lập tính phổ quát với tính đặc thù và ngược lại.

Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm kết hợp tính phổ quát và tính đặc thù còn là cơ sở phương pháp luận khoa học để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là quan điểm cơ bản để bảo đảm “hội nhập” mà “không hòa tan” trên lĩnh vực nhân quyền.

(3) Quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Con người sinh ra vốn dĩ đã có quyền nhưng mới ở dạng những nhu cầu bức thiết, những yêu sách hợp lý. Để trở thành quyền thực sự phải cần đến điều kiện, môi trường dân chủ và yếu tố pháp luật thiết định. Dân chủ là quyền lực của người dân, đặc biệt trong quá trình tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Nó được thể chế hóa cơ bản theo nguyên tắc bảo đảm quyền công dân và quyền con người nói chung. Quyền con người phải thông qua thể chế dân chủ mới được hiện thực hóa. Ở nước ta, chúng được mở rộng, được bảo đảm gắn với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và các tổ chức xã hội với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011 xác định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”8.

Hiện nay, các nguyên tắc về quyền con người được nêu trong các văn kiện quốc tế trở thành định hướng cơ bản đòi hỏi tất cả các quốc gia phấn đấu nội luật hóa để trở thành pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người một cách thực tế. Do đó “Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, từng bước thể chế hoá nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta và với các tiêu chuẩn tiến bộ về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi”9.

(4) Bảo đảm quyền con người trên cơ sở chủ quyền quốc gia và chủ động, tích cực đối thoại, hợp tác và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền.

Sự phát triển của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị và lựa chọn con đường phát triển trên cơ sở chủ quyền quốc gia là những quyền phổ biến được thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người cơ bản diễn ra trong quá trình chuyển hóa hay “nội luật hóa” pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, việc thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người luôn được bảo đảm theo nguyên tắc đã được xác lập trong Luật Điều ước quốc tế năm 2016 là: ưu tiên Hiến pháp và dựa vào Hiến pháp Việt Nam, thực hiện sự ưu tiên pháp luật quốc tế so với pháp luật (luật, pháp lệnh,…) Việt Nam. Cho đến nay các giá trị phổ quát của quyền con người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp, nhất là Hiến pháp năm 2013; đã và sẽ được tiếp tục thể chế hóa trong đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Hiện nay, việc bảo đảm quyền con người theo phương châm này là để mỗi cá nhân được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Thông qua đó, việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ cá nhân không tách rời việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng đồng; bảo đảm quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, như: quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác,… để loại trừ “mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”10 trên con đường phát triển vì mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ở Việt Nam.

Mặt khác, các tiêu chí nhân quyền của Liên Hiệp quốc trong nhiều tr­ường hợp hiện đang bị chi phối hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tiêu chí nhân quyền của các thế lực cực hữu tại các nước phương Tây. Vì thế, nhằm thực hiện các giá trị phổ quát của quyền con người trên cơ sở chủ quyền quốc gia, Việt Nam cần chủ động và tích cực đối thoại, hợp tác và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền để vừa giúp bè bạn quốc tế hiểu hơn về thành tựu, quan điểm và giá trị nhân quyền, đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc chuyển hóa pháp luật quốc tế về nhân quyền vào pháp luật trong nước; vạch trần và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với chế độ XHCN ở nước ta. Thông qua đó góp phần bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và đóng góp tốt hơn vào sự nghiệp bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới.

(5) Quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả quyền tập thể và quyền cá nhân, quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền do luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thừa nhận quyền con ng­ười là thuật ngữ độc lập so với thuật ngữ quyền công dân. Khi chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành độc lập cho dân tộc, Nghị quyết của Đại hội Quốc dân Tân Trào (16/8/1945), dựa trên luận điểm “sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền”11 của Nguyễn Ái Quốc (năm 1925), đã xác định: “Ban bố những quyền của dân, cho dân: Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ…”12.

Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh (sửa đổi, bổ sung) năm 2011, Hiến pháp năm 1992, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm của các giai đoạn 1991-2000… và giai đoạn 2021-2030 luôn nhất quán phân biệt hai thuật ngữ quyền con người, quyền công dân.

Hiến pháp năm 2013 đã chế định rõ các quyền con người và quyền công dân trong toàn bộ Chương II và ở các điều 51, 54, 57 thuộc Chương III. Hiến pháp năm 2013 cũng quy định về hạn chế quyền để bảo đảm quyền con người, quyền công dân một cách minh bạch, nhất là phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước. Đồng thời, Điều 6 Hiến pháp năm 2013, chế định: “1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 2. Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

Để bảo đảm quyền con người trong thực tế, việc thể chế hóa chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền có ý nghĩa căn cốt. Theo sự chế định của Hiến pháp năm 2013, công dân và mọi người được hưởng các quyền công dân, quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền đó theo Hiến pháp và pháp luật. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn xác định và thể chế hóa nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân; đồng thời, cũng xác định và thể chế hóa quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước nhằm ràng buộc nghĩa vụ của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Định hướng là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân hữu hiệu trong thực tế.

(6) Từng bước bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền sống, quyền phát triển và quyền của các nhóm yếu thế.

Quyền con người là phổ biến và không thể chuyển nhượng, không thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Bất kỳ quyền nào được bảo đảm hay bị vi phạm đều tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các quyền khác. Tất các các quyền gắn bó với nhau, phụ thuộc lẫn nhau và không thể phân chia. Và, tất cả thành viên của nhân loại đều là chủ thể của quyền; mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội, giới tính, giai cấp, dân tộc, chủng tộc) đều có quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát triển quyền.

Về nguyên tắc, phải bảo đảm quyền ngang nhau của mọi quyền và bảo đảm quyền ngang nhau của tất cả các chủ thể quyền. Nhưng việc bảo đảm sự bình đẳng này là một quá trình lâu dài, phức tạp về đạo đức, pháp lý, chính trị, xã hội, văn hóa, đặc biệt về kinh tế. Vì vậy hiện nay ở Việt Nam, việc bảo đảm sự bình đẳng tất cả các quyền và của tất cả các chủ thể quyền, trước tiên và cơ bản là một nguyên tắc có tính định hướng, được thực hiện trong từng bước và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Những yếu tố bình đẳng trong việc bảo đảm quyền con người từng bước được kết hợp và thẩm thấu vào việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các chủ thể quyền khác nhau trong xã hội.

Việt Nam đã và sẽ thực hiện sự ưu tiên bảo đảm quyền phát triển và quyền an sinh xã hội, nhất là của các nhóm yếu thế. Việc ưu tiên như vậy là nhằm từng bước thúc đẩy việc bảo đảm quyền ngang nhau về mặt pháp luật đối với các chủ thể quyền trên tất cả các lĩnh vực quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021-2030) khẳng định quan điểm phát triển nhanh và bền vững gắn với bao trùm là yếu tố con người. Đảng luôn đặt con người, quyền của con người ở trung tâm của sự phát triển, trung tâm của đường lối, chính sách và luật pháp. Một mặt, việc ưu tiên bảo đảm quyền phát triển là để bảo vệ, thúc đẩy các quyền khác nhau của tất cả mọi người chứ không chỉ nhằm mang lại lợi ích và quyền kinh tế cho một số người. Mặt khác, không thể thúc đẩy quyền phát triển bằng mọi giá mà sự ưu tiên được xem xét và thực hiện phù hợp với trình độ phát triển và thực thi các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

3. Kết luận

Từ luận giải trên cho thấy, việc tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam không chỉ là nhiệm vụ lý luận mà còn là hành động thực tiễn cần thiết trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng lớn để Việt Nam phát triển mạnh mẽ, bảo đảm công bằng, dân chủ và tự do cho mọi người, phát huy tối đa nội lực kết hợp với sức mạnh thời đại đưa đất nước phát triển phồn vinh, thịnh vượng.

Chú thích:

1. Tổng Bí thư Tô Lâm nói về 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.evn.com.vn/d6/news/Tong-Bi-thu-To-Lam-noi-ve-7-dinh-huong-chien-luoc-truy cập 15/01/2025.

2. Nguyễn Thanh Tuấn (2022). Khát vọng, lý tưởng, phân kỳ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tạp chí Lý luận chính trị số 538 (12/2022), tr. 24.

3, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 76, 85.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 51.

5, 13. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx, truy cập 15/01/2025.

6, 9. Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) (1992). Chỉ thị số 12- CT/TW ngày 12/7/1992 về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”.

7. Trung tâm nghiên cứu quyền con người (2002). Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, tr.104.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 72.

11. Hồ Chí Minh toàn tập (1995). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 491.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 560.

Nguồn: Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

PGS.TS Nguyễn Thị Báo - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Đắk Lắk: Thanh âm nghệ thuật đường phố

Đắk Lắk: Thanh âm nghệ thuật đường phố
Những màn trình diễn nghệ thuật rực rỡ và sôi động của các câu lạc bộ, đội, nhóm… được biểu diễn trong không gian rộng lớn, thoải mái, thu hút người dân và du khách cùng tham gia đã trở thành một sản phẩm du lịch hấp dẫn.

Trung Quốc cảnh báo vàng về không khí lạnh tăng cường

Trung Quốc cảnh báo vàng về không khí lạnh tăng cường
Không khí lạnh tăng cường tràn xuống khiến nhiệt độ giảm hơn 10°C ở nhiều tỉnh, thành của Trung Quốc, quốc gia này đã phải phát cảnh báo màu vàng về đợt lạnh này. Đáng chú ý, nhiệt độ thấp nhất được ghi nhận tại thành phố Ergun ở khu vực Nội Mông, xuống tới âm 38°C.

Quảng Nam: Tăng cường hiệu quả quản lý tài nguyên nước

Quảng Nam: Tăng cường hiệu quả quản lý tài nguyên nước
An ninh nguồn nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội tại Quảng Nam, do đó các đơn vị, địa phương đã và đang tập trung triển khai, thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ nguồn nước mặt, nước dưới đất trên địa bàn tỉnh.

Ngành du lịch hướng tới mục tiêu đón 23 triệu lượt khách quốc tế

Ngành du lịch hướng tới mục tiêu đón 23 triệu lượt khách quốc tế
Chương trình kích cầu du lịch 2025 sẽ triển khai nhiều ưu đãi về giá cả, dịch vụ và trải nghiệm nhằm thúc đẩy tăng trưởng du lịch và hướng đến mục tiêu đón 22-23 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2025.

Bắc Giang triển khai các biện pháp ứng phó với sự cố chất thải

Bắc Giang triển khai các biện pháp ứng phó với sự cố chất thải
Tỉnh Bắc Giang chủ động xây dựng kế hoạch, chuẩn bị các nguồn lực, các phương án hiệp đồng, sẵn sàng ứng phó khi xảy ra sự cố chất thải. Tổ chức tiếp nhận, xử lý kịp thời thông tin sự cố chất thải, ưu tiên bảo đảm thông tin cho hoạt động ứng phó, báo cáo kịp thời đến cơ quan có thẩm quyền khi vượt khả năng ứng phó.