Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người
1. Một số vấn đề lý luận
Quyền con người là một phạm trù đa diện, dù trong lịch sử chính trị tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ quyền con người thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan niệm thống nhất. Quyền con người là giá trị phổ quát mà tất cả người dân các quốc gia đều mong muốn quyền của mình được bảo đảm; quyền này được nêu trong hầu hết các điều ước quốc tế. Trên cơ sở những văn kiện pháp lý, tài liệu trong và ngoài nước, có thể hiểu: quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù mang tính lịch sử và ngày càng phát triển cùng với sự tiến bộ của tri thức nhân loại. Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là một giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước tối ưu, hiệu quả, mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của Hiến pháp, pháp luật với nội dung thực hiện quyền lực của Nhân dân và vì sự văn minh, tiến bộ, phát triển con người và nhân loại. Do đó, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ quyền của Nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người, tự do cá nhân cũng như công bằng, bình đẳng trong xã hội.
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm tính tối cao của pháp luật. Ở đây, pháp luật được coi là nguyên tắc tối thượng trong xây dựng các thể chế, thiết chế và điều hành xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể. Nếu không đề cao vị trí của pháp luật thì dân chủ sẽ không được hình thành ở một xã hội mà ở đó các hành vi của con người chỉ được điều chỉnh bằng tín điều tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán,… Bởi những các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội trên không thể bảo đảm cho công dân thực hiện quyền làm chủ thông qua quyền bầu cử, quyền ứng cử; quyền khiếu nại, tố cáo hay giám sát các hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền. Những quyền này chỉ có thể được hiện thực hóa khi những cam kết về sự tự do của con người được thể chế hóa thành các quy định pháp luật, nghĩa là trong một xã hội được tổ chức chặt chẽ trên cơ sở pháp luật.
Tuy nhiên, chỉ đến Nhà nước pháp quyền XHCN thì quyền con người mới thật sự được coi trọng, là động lực cho sự phát triển. Chế độ XHCN với sự xóa bỏ mọi bất bình đẳng về lợi ích thì quyền con người mới có điều kiện thực hiện đầy đủ, trọn vẹn. Nhà nước pháp quyền XHCN là bộ máy quyền lực do toàn thể nhân dân ủy quyền, có hệ thống các cơ quan được tổ chức từ trung ương đến địa phương cùng với bộ máy thực thi quyền lực nhà nước. Đó chính là nền tảng bảo đảm và hiện thực hóa quyền con người trong điều kiện của nước ta hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa trong một thế giới đa cực biến động không ngừng.
Thực tiễn đấu tranh tại nhiều quốc gia đã khẳng định, độc lập dân tộc cần gắn liền mới chủ nghĩa xã hội. Trên ý nghĩa ấy, quyền con người thể hiện rõ bản chất của chế độ XHCN, của Nhà nước pháp quyền XHCN, bởi khi ấy “lợi ích phổ biến trở thành lợi ích đặc thù trong hiện thực,… lợi ích đặc thù trở thành lợi ích phổ biến trong hiện thực”1. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển theo dòng chảy chung của nhân loại là hướng tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc và thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Từ hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng gian khổ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi đến kết luận: “đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta”2; “giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”3. Quan điểm này đã khẳng định lại mục tiêu của con đường cách mạng vô sản là nhằm xóa bỏ mọi vi phạm về nhân quyền từ tận gốc rễ, đó là ách áp bức bóc lột, áp bức giai cấp được hình thành trên cơ sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc một nhóm thiểu số trong xã hội. Từ đó, quyền con người sẽ trở thành những giá trị phổ quát đích thực, là hiện thân của sự tự do, giải phóng toàn diện của mọi cá nhân và nhân loại.
2. Thành tựu trong bảo đảm quyền con người của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Vấn đề coi trọng quyền con người không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người dân mà còn là tôn chỉ hoạt động, là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Chính vì vậy, nhu cầu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam là phù hợp với thực tiễn và đã được thực thi, thể hiện ở những nội dung:
2.1. Quyền con người được ghi nhận và khẳng định
Công nhận quyền con người là quá trình Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Nói cách khác, đây chính là sự thừa nhận của Nhà nước đối với các giá trị phổ biến của quyền con người ở cấp độ quốc tế và quốc gia. Điều này góp phần khẳng định quyền con người là giá trị chung của nhân loại và cần được bảo đảm trên phạm vi toàn cầu. Những quy định về quyền con người ở Việt Nam thể hiện nỗ lực và cam kết của Nhà nước ta trong thực hiện các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hiến pháp năm 2013 đã dành cả một chương (Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) để quy định cụ thể và toàn diện hơn các quyền của con người; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Vị trí chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đặt tại Chương II Hiến pháp năm 2013 ngay sau chế định về chế độ chính trị. Đây không chỉ sự thay đổi về kỹ thuật lập hiến mà còn phản ánh thay đổi về nhận thức, tư duy lý luận của Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân trong tình hình mới. Hiến pháp năm 2013 cũng tránh được sự nhầm lẫn giữa quyền con người và quyền công dân; đồng thời khẳng định chủ thể rộng nhất của quyền con người là quyền của các cá nhân xứng đáng được hưởng không kể quốc tịch. Chủ thể hưởng thụ các quyền đã được chuyển đổi từ “công dân” thành “mọi người” – điều này đã góp phần thể hiện xu hướng tiến bộ, hội nhập và phát triển của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, quy định trong Hiến pháp, những nội dung về quyền con người không ngừng được cụ thể hóa trong các văn bản pháp quy của Việt Nam. Các văn bản quy pháp pháp luật này đã “nội luật hóa” một cách toàn diện những Công ước Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây. Đây là điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm được, thể hiện những quan điểm tiến bộ trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của 7/9 công ước quốc tế chủ chốt về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Vì vậy, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Chỉ tính từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã ban hành hàng trăm văn bản luật và dưới luật, trong đó có những đạo luật trực tiếp liên quan tới lĩnh vực quyền con người, như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014…
Các văn bản quy phạm pháp luật trên dựa trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và các Công ước quốc tế quy định đầy đủ các quyền thuộc thế hệ quyền thứ nhất như quyền sống; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền được xét xử công bằng; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tiếp cận thông tin; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền khiếu nại, tố cáo;… Những sửa đổi, bổ sung và ban hành mới trong hệ thống pháp luật hiện nay đã tạo ra những thay đổi quan trọng, tạo lập sơ sở pháp lý bảo vệ, bảo đảm một cách hiệu quả các quyền dân sự, chính trị. Đồng thời, việc ghi nhận các quyền này thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong thực hiện các cam kết quốc tế cũng như thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Những thành tựu đạt được trong ghi nhận quyền con người ở Việt Nam xuất phát trước hết từ truyền thống nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam; từ ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam và sự cố gắng, nỗ lực và chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, hướng tới một xã hội luôn đặt con người ở trung tâm của sự phát triển và một nhà nước pháp quyền “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Đó cũng là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ XHCN, của truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam với việc thực hiện các chuẩn mực chung về quyền con người được quy định trong các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
2.2. Quyền con người được tôn trọng
Đối với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện hiệu quả mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” chính là minh chứng thiết thực nhất trong tôn trọng quyền con người, là tiền đề để thực hiện các cam kết quốc tế. Tôn trọng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế được thừa nhận rộng rãi cũng như các điều ước quốc tế, cam kết song phương, đa phương mà Việt Nam tham gia là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Nhà nước đã bảo đảm các hành vi của những chủ thể có thẩm quyền không xâm phạm quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống đã chứng minh rằng việc thực hiện những quyền con người một cách tuyệt đối là không thể. Do đó, việc hạn chế quyền của mỗi cá nhân ngày càng được kiểm soát chặt chẽ về lý do và chủ thể được thực hiện hành vi trên. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định trên đã khẳng định quyền con người không thể bị giới hạn một cách tùy tiện, ngoài trừ các trường hợp cần thiết theo luật định. Điều này đã chấm dứt tình trạng hạn chế quyền con người một cách tùy tiện như trước đây. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hạn chế quyền con người góp phần hiện thực hóa mục tiêu tôn trọng các giá trị khách quan phổ biến của cá nhân trong một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh việc kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp và gián tiếp vào thực hiện các quyền con người, Nhà nước cần phải chủ động xây dựng và triển khai, thực hiện có hiệu quả các thể chế, chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển và biện pháp quản lý cụ thể để mọi người được thụ hưởng và phát triển các quyền của mình trong thực tế. Do đó, Nhà nước luôn chú trọng đến hoạt động này nhằm nâng cao tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
(1) Cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp, các đạo luật vào các văn bản dưới luật nhằm bảo đảm các quyền con người. Đây là hoạt động có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương nhằm thực thi các biện pháp hành chính, quy tắc, thủ tục, các dịch vụ công,… gắn với việc bảo đảm quyền con người.
(2) Xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách phát triển gắn với bảo đảm quyền con người. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều chương trình, chính sách phát triển của Việt Nam đã có những quy định tác động đến bảo đảm quyền con người, như: Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn 2011 – 2020, giai đoạn 2021 – 2030; Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010; Chương trình xây dựng nông thôn mới,… Những chương trình, chính sách trên đã hỗ trợ tích cực cho người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước, xã hội; tiếp cận thuận lợi hơn với các dịch vụ trợ giúp pháp lý; an sinh xã hội… góp phần thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong quá trình phát triển.
(3) Trực tiếp áp dụng các biện pháp phù hợp với bối cảnh cụ thể của từng ngành, từng địa phương nhằm nâng cao năng lực hưởng thụ các quyền của người dân, đặc biệt là của các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. Hoạt động này được thực hiện thông qua những sáng kiến từ cơ sở như: tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quyền con người cho cán bộ, công chức, viên chức, các tầng lớp nhân dân; triển khai các giải pháp về phát triển khoa học kỹ thuật, nguồn vốn phát triển kinh tế – xã hội; hỗ trợ trực tiếp thường xuyên, đột xuất cho các nhóm dễ bị tổn thương trước những hiểm họa như thiên tai, mất mùa, dịch bệnh,…
2.3. Quyền con người được bảo vệ
Bảo vệ quyền con người là việc áp dụng các chế tài pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền con người, từ đó phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tái phạm, vi phạm mới. Đây chính là cơ sở để hình thành sự tôn trọng quyền con người trong xã hội. Mọi hành vi xâm phạm đến các quyền con người dù từ phía các cá nhân hay các cơ quan nhà nước phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Ở Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ, bảo đảm quyền con người được xác định là của cả hệ thống chính trị.
Trên cơ sở đó, Nhà nước Việt Nam đã từng bước xây dựng hành lang pháp lý về phương thức vận hành của các thiết chế nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, gồm Hiến pháp năm 2013 các luật, như: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức Tòa án nhân dânnăm 2014,… Hầu hết các cơ quan nhà nước đã được tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả nhằm bảo đảm tốt nhất nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Từ đó, mỗi cơ quan đều đóng vai trò quan trọng nhằm hạn chế những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thể hiện qua ba cấp độ:
(1) Cấp độ phòng ngừa vi phạm: là các biện pháp được áp dụng để ngăn chặn từ xa bằng việc nâng cao nhận thức, trang bị các kiến thức kỹ năng, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh; thanh tra, kiểm tra, giám sát và kể cả xử lý vi phạm đề giảm thiểu các nguy cơ vi phạm.
(2) Cấp độ hỗ trợ: các biện pháp được áp dụng đối với các nhóm có nguy cơ cao bị vi phạm quyền con người về các hành vi bạo lực, ngược đãi, bóc lột, xâm hại, bỏ rơi… nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại trừ các nguy cơ có thể gây hại.
(3) Cấp độ can thiệp: là các biện pháp được áp dụng đối với những người là nạn nhân của tội phạm, của hành vi bạo lực, vi phạm quyền con người nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi xâm hại và hỗ trợ chăm sóc phục hồi, giúp họ nâng cao khả năng tái hòa nhập cộng đồng.
Đồng thời, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, như: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước chú trọng đến điều chỉnh cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động, kiện toàn đội ngũ, cán bộ để làm cho bộ máy hoạt động thông suốt hiệu quả;… Đặc biệt, Nhà nước tổ chức và xây dựng bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật, bao gồm Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân… các cấp từ trung ương đến địa phương, thực hiện chức năng điều tra, truy tố, xét xử để bảo vệ các quyền tự do cơ bản của các cá nhân. Các cơ quan này hoạt động độc lập trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm đưa ra những chế tài từ dân sự, hành chính đến hình sự để áp dụng với các chủ thể vi phạm.
Không chỉ hoàn thiện các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Nhà nước cũng chú trọng đến công tác xây dựng các cơ quan chuyên trách về nhân quyền, như: Ban Chỉ đạo Nhân quyền; Ủy ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ; Ủy ban Dân tộc (của Chính phủ); Hội đồng Dân tộc (của Quốc hội), Ủy ban Dân nguyện (của Quốc hội);… Các cơ quan này từng bước tạo nền móng để Việt Nam thành lập Ủy ban Nhân quyền quốc gia nhằm theo dõi việc việc thực thi và bảo vệ quyền con người trên các lĩnh vực: ban hành pháp luật; thực thi Hiến pháp, pháp luật; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử; xem xét về tính tương thích của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người;…5.
3. Những khó khăn, thách thức của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người
Thành tựu của thời kỳ hội nhập quốc tế đã giúp chúng ta có thêm nhiều kinh nghiệm và bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của người dân; tuy nhiên, đây là quá trình có nhiều khó khăn, thách thức, cụ thể:
Một là, hệ thống pháp luật thiếu tính ổn định dẫn tới những rủi ro chính sách, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của các chủ thể khi xây dựng chính sách. Ở góc độ này, trách nhiệm bảo đảm quyền con người của Nhà nước ta chưa được thể chế hóa cụ thể.
Hai là, các quy trình thủ tục, nhất là thủ tục hành chính hiện nay còn phức tạp, nhiều trường hợp gây khó khăn cho người dân trong quá trình thực hiện quyền của mình. Sự phức tạp của trình tự thủ tục, trong nhiều trường hợp làm hạn chế quyền của cá nhân, điều này là phổ biến đối với cả quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
Ba là, tình trạng án oan sai vẫn xảy ra trên thực tế. Điều này không những không trừng trị được những hành vi phạm tội mà nó còn xâm hại nghiêm trọng đến quyền con người của những người vô tội; ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của người dân đối với bộ máy nhà nước nói chung và hệ thống tòa án nhân dân nói riêng.
Bốn là, nhận thức một bộ phận cán bộ, công chức về quyền con người còn hạn chế. Đây chính là tiền đề dẫn đến những hành vi vi phạm quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp chính đáng của công dân. Vấn đề này hiện nay diễn biến khá phức tạp, làm giảm lòng tin của Nhân dân vào hoạt động của bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Năm là, hoạt động giám sát việc bảo đảm quyền con người còn có biểu hiện hình thức, chưa kịp thời phát hiện và khắc phục những hạn chế, thiếu sót của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyền con người. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do Việt Nam đang thiếu một cơ quan nhân quyền quốc gia hoạt động chuyên trách, độc lập với địa vị pháp lý đầy đủ để chủ trì, phối hợp, giám sát, hướng dẫn các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm các quyền con người.
Sáu là, điều kiện kinh tế – xã hội còn hạn chế cũng như sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các khu vực làm cho việc bảo đảm các quyền con người, nhất là các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn tới sự bất cập trong việc bảo đảm tính bình đẳng cơ hội tiếp cận cho mọi người.
4. Một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhằm góp phần khắc phục hạn chế, thiếu sót, nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng một số giải pháp trọng tâm như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm quyền con người. Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền năm 1948 khẳng định: “Điều cốt yếu là các quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật”. Quyền con người luôn là đối tượng được phản ánh thông qua các quy định pháp luật và chỉ thông qua pháp luật thì quyền con người mới được ghi nhận, bảo đảm và thực hiện trên thực tiễn. Do đó, yêu cầu đặt ra cần thể chế hóa chính sách của Đảng, trên nền tảng các chuẩn mực quốc tế, tạo dựng hành lang pháp lý nhằm tăng cường việc trao quyền và thụ hưởng quyền của các cá nhân trong xã hội.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia xây dựng pháp luật, như trách nhiệm thẩm định của các cơ quan tư pháp, trách nhiệm của cơ quan xây dựng dự thảo, trách nhiệm của cơ quan ban hành. Cá nhân hóa trách nhiệm của các chủ thể liên quan khi văn bản ban hành có vi phạm về tính hợp hiến, hợp pháp; tính thống nhất, kỹ thuật pháp lý6.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp để bảo vệ quyền con người. Hoạt động hành chính nhà nước và hoạt động xét xử phải đặt người dân vào vị trí trung tâm. Trên cơ sở đó, cần xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, quản lý nhà nước có hiệu quả, giảm thiểu, bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà, đáp ứng tốt nhất yêu cầu chính đáng của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, đề cao vị trí, vai trò của cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống chính trị; có cơ chế phù hợp bảo đảm độc lập tư pháp.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, giáo dục về quyền con người. Đứng trước những yêu cầu thời đại, đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp giáo dục về quyền con người cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người dân. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật phải hướng đến nâng cao nhận thức, tôn trọng và tuân thủ quyền con người trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
Thứ năm, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội chăm lo và phát triển con người. Các chủ thể có thẩm quyền cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách để phát triển, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tạo sinh kế phát triển bền vững tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, thành lập cơ quan quyền con người quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần nghiên cứu sâu các mô hình, cơ chế bảo vệ quyền con người nhằm tìm ra mô hình tối ưu, phù hợp với đặc thù chính trị Việt Nam. Bốn phương án để lựa chọn có thể là: (1) Thanh tra Quốc hội (ombusman) hay Hội đồng Nhân quyền của Quốc hội với tư cách là một ủy ban của Quốc hội do Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo; (2) Ủy ban về Quyền con người trực thuộc Chính phủ; (3) Hội bảo vệ Quyền con người Việt Nam với tư cách là một tổ chức xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (4) Viện Nghiên cứu Quyền con người quốc gia.
5. Kết luận
Trong xã hội biến đổi ngày càng mạnh mẽ với nhiều mối bất an, đe dọa đến an toàn, an ninh cá nhân thì nhu cầu bảo đảm quyền con người là nhiệm vụ chiến luợc, cấp bách và lâu dài của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, việc bảo đảm quyền con người là hoạt động đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Nhà nước, tuyệt đối không thể rập khuôn theo các giá trị và tiêu chuẩn của các nước phương Tây với các mô hình và thể chế chính trị khác. Do đó, cần sự chung tay của cả hệ thống chính trị cũng như toàn thể nhân dân để quyền con người trở thành mục tiêu, động lực đích thực của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chú thích:
1. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 1. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 378.
2, 3. Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo về Nhân quyền của Chính phủ (2012). Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”. H. NXB Chính trị – Hành chính, tr. 14, 13.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 76.
5. Nhà nước Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/nha-nuoc-viet-nam-doi-voi-viec-bao-dam-quyen-con-nguoi-trong-dieu-kien-hoi-nhap-quoc-te-hien-nay-74.
6. Học viện Chính trị khu vực I (2019). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Nội luật hóa điều ước quốc tế về quyền con người ở Việt Nam hiện nay”. Hà Nội, tr. 83.
Nguồn: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người