Phú Yên tìm giải pháp bền vững cho những công trình nước sạch nông thôn
Tin bất động sản ngày 4/7: Phú Yên lên kế hoạch triển khai gần 20.000 căn nhà ở xã hội Tin bất động sản ngày 30/6: Những tuyến phố nào tại Hà Nội được đề nghị bổ sung giá đất? |
Theo Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS_VSMTNT) thuộc Sở NN&PTNT tỉnh Phú Yên, trước năm 2010, trên địa bàn 3 huyện miền núi Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân có 48 công trình CNSH đã được xây dựng từ các Chương trình 134, 135 và Mục tiêu Quốc gia NS-VSMTNT với tổng kinh phí đầu tư hơn 56,8 tỷ đồng; tổng công suất mỗi ngày đêm 11.312m3 nước sinh hoạt cung cấp cho 48.332 người dân tại 9.460 hộ gia đình. Sau 13 năm xây dựng, đến nay chỉ có 14 công trình hoạt động bền vững, 4 công trình bình thường, còn lại 11 công trình kém hiệu quả và 11 công trình không hoạt động.
Ngoài 3 nguồn vốn nêu trên, từ năm 2010 đến nay 3 huyện miền núi Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Yên còn huy động các doanh nghiệp, người dân kết hợp nguồn vốn Trung ương hỗ trợ thực hiện các dự án cấp bách phòng chống, khắc phục tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn để đầu tư xây dựng thêm 24 công trình CNSH với tổng kinh phí đầu tư hơn 164 tỷ đồng, tổng công suất mỗi ngày đêm 8.041m3 nước sinh hoạt cung cấp cho 52.922 người dân tại 9.942 hộ gia đình. Tuy nhiên đến nay chỉ có 10 công trình hoạt động bền vững, còn lại 6 công trình bình thường, 2 công trình kém hiệu quả và 6 công trình không hoạt động.
Một công trình cấp nước sinh hoạt ở huyện miền núi Sơn Hòa trong tình trạng bỏ hoang. |
Chia sẻ về vấn đề này, ông Hồ Hữu Như, Giám đốc Trung tâm NS-VSMTNT tỉnh Phú Yên cho biết, quy mô nhiều công trình CNSH đã được đầu tư xây dựng trước đây còn nhỏ, chưa đồng bộ, nguồn nước khai thác không ổn định… Thế nhưng 8 năm qua nguồn ngân sách hỗ trợ các địa phương còn hạn hẹp, không thể nâng cấp công trình CNSH, một số khu vực thiếu nước nhưng chưa được đầu tư công trình CNSH. Trong khi đó nguồn thu tiền sử dụng nước không đủ để bảo dưỡng, sửa chữa khắc phục các sự cố, nên nhiều công trình xuống cấp nghiêm trọng dẫn đến bỏ hoang, các địa phương cũng chưa tìm ra mô hình quản lý hiệu quả và bền vững công trình CNSH.
Nói về một số khó khăn, bất cập, Trưởng ban Dân tộc HĐND tỉnh Phú yên Phạm Ngọc Công, Trưởng đoàn khảo sát tình hình đầu tư, quản lý, sử dụng và khai thác các công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi của tỉnh, tháng 5/2023 nói: Phần lớn các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung đã đưa vào sử dụng trên 10 năm nên thường xuyên hư hỏng, xuống cấp, hoạt động kém hiệu quả hoặc không hoạt động. Trang thiết bị đầu tư công trình các giai đoạn chưa đồng bộ nên khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm soát và đánh giá tỉ lệ thất thoát nước. Kinh phí phân bổ hàng năm để đầu tư, nâng cấp mở rộng công trình cấp nước trên địa bàn các huyện miền núi rất ít, không đáp ứng nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, nguồn thu tiền sử dụng nước không đủ chi phí cho công tác duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa khắc phục các sự cố nhỏ; mô hình quản lý, vận hành, khai thác công trình cấp nước chưa được thống nhất; việc chuyển đổi hoặc thành lập đơn vị sự nghiệp công để làm nhiệm vụ quản lý, vận hành chưa được thực hiện. Trình độ nghiệp vụ, năng lực, kinh nghiệm của nhân viên quản lý, vận hành còn yếu, chưa đồng đều, thường xuyên thay đổi, nhiều trạm nhân viên không đáp ứng nhiệm vụ chuyên môn. Công tác kêu gọi xã hội hóa trong việc đầu tư, nâng cấp mở rộng công trình cấp nước cũng đang gặp nhiều khó khăn.
Trên địa bàn huyện Sơn Hòa, ngoại trừ 8 công trình CNSH được UBND tỉnh Phú Yên cho phép thanh lý còn có 15 công trình hoạt động không hiệu quả hoặc không hoạt động. Trong số đó có không ít công trình đã bị cỏ dại phủ dày, đơn cử 3 công trình giếng đào tại 3 thôn Tân Thành, Tân Hội, Tân Lương xã Sơn Hội được đầu tư xây dựng trong hai năm 2009, 2010 đã bỏ hoang. Cách đó không xa, 2 công trình xây dựng năm 2007, 2009 tại 2 thôn Ma Gú, Hòn Ông ở xã Sơn Phước cũng không hoạt động từ lâu… Tại huyện Đồng Xuân, 2 công trình CNSH xây dựng năm 2012 tại hai thôn Phú Giang, Phú Lợi ở xã Đa Lộc không hoạt động được.
Tháng 2/2023, UBND tỉnh Phú Yên xác lập kế hoạch đầu tư, nâng cấp công trình CNSH ở nông thôn giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Theo đó, để đạt được mục tiêu đến năm 2025 có 60% và đến năm 2030 có 65% dân số nông thôn ở Phú Yên tiếp cận nước sạch quy chuẩn quốc gia, ngoài việc tập trung khôi phục các công trình CNSH trước đây, Phú Yên tiếp tục đầu tư xây dựng mới, kết hợp nâng cấp và mở rộng một số công trình ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu vực thường xuyên thiếu nước sinh hoạt do hạn hán và xâm nhập mặn gây ra. Mặt khác, tỉnh Phú Yên kêu gọi đầu tư các công trình CNSH theo hình thức xã hội hóa, đối tác công – tư…
Theo ông Lê Tấn Hổ, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Phú Yên, mục tiêu cụ thể đến năm 2025 phải hoàn thành việc khôi phục, duy trì và đảm bảo hiệu quả hoạt động ổn định 74 công trình CNSH đã xây dựng trước đây với tổng dự toán khoảng 185,1 tỷ đồng để cung cấp nước sạch cho 34.403 hộ gia đình. Trong đó sử dụng nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và tỉnh 58,3 tỷ đồng, ngân sách huyện – xã gần 6,6 tỷ đồng, người dân đóng góp gần 26 tỷ đồng và huy động các nguồn hợp pháp khác 94,2 tỷ đồng. Tiếp đó sẽ kêu gọi đầu tư xây dựng mới 29 công trình CNSH với tổng dự toán gần 734 tỷ đồng, từ các nguồn vốn xã hội hóa theo hình thức đối tác công - tư và các nguồn hợp pháp khác để cung cấp nước sạch cho 57.700 hộ gia đình. Đến năm 2030, Phú Yên không chỉ đảm bảo duy trì hoạt động 103 công trình đã đầu tư, nâng cấp mở rộng, mà tiếp tục kêu gọi đầu tư 11 công trình mới với tổng dự toán 217,3 tỷ đồng để cung cấp nước sạch cho 23.047 hộ gia đình.
Danh mục công trình cần phải khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới từng giai đoạn cũng đã được đề cập chi tiết trong kế hoạch gắn liền trách nhiệm của các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương có liên quan. Thế nhưng yêu cầu về nguồn vốn đầu tư khôi phục sửa chữa 74 công trình CNSH đã xây dựng trước đây vẫn còn là bài toán khó, cần sớm có lời giải.
Được biết cuối tháng 6 vừa qua, Thường trực HĐND tỉnh Phú Yên cũng đã có cuộc khảo sát thực tế tại nhiều công trình CNSH ở 3 huyện miền núi Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân để có giải pháp cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục những khó khăn, tồn tại có liên quan, sớm đáp ứng nhu cầu nguồn nước sinh hoạt cho người dân.
Còn ông Công cho biết thêm, Ban Dân tộc HĐND tỉnh đề xuất UBND tỉnh kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành trung ương sớm ban hành nghị định quy định cấp nước sinh hoạt nông thôn; các thông tư hướng dẫn quy trình bảo trì công trình cấp nước sạch nông thôn; thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác công tư trong lĩnh vực thủy lợi, nước sạch nông thôn; quy trình đặt hàng, giao kế hoạch dịch vụ công cấp nước sinh hoạt cho miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo và quyết định về thực hiện tín dụng ưu đãi công trình cấp nước và vệ sinh nông thôn thực hiện Chiến lược quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Ban cũng kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn ưu tiên bố trí vốn từ nguồn ngân sách địa phương, nguồn các chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn vốn hợp pháp khác để đẩy nhanh tiến độ thực hiện có hiệu quả mục tiêu theo Kế hoạch 27/KH-UBND ngày 6/2/2023 của UBND tỉnh về đầu tư, nâng cấp công trình cấp nước sạch sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Trước mắt, xem xét hỗ trợ kinh phí hoặc kêu gọi đầu tư để đầu tư, nâng cấp, sửa chữa, mở rộng các công trình cấp nước đã xuống cấp, không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả và những khu vực chưa có công trình cấp nước. Trong thời gian chờ trung ương ban hành khung định mức sản xuất nước sạch khu vực nông thôn và hướng dẫn xây dựng giá nước, tỉnh xem xét tăng giá nước sinh hoạt ở khu vực miền núi từ 6.000 đồng/m3 mức thu hiện nay (cấp nước bơm dẫn) lên 7.000 đồng/m3 để đảm bảo kinh phí trong quản lý vận hành; đồng thời cho phép tính hao mòn tài sản kết cấu hạ tầng công trình cấp nước nông thôn cho đến khi tỉnh ban hành giá nước mới (không trích khấu hao).
UBND các huyện Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân cần chủ động ưu tiên bố trí vốn từ ngân sách địa phương, các chương trình mục tiêu quốc gia và lồng ghép các nguồn vốn hợp pháp khác để đẩy nhanh tiến độ thực hiện danh mục dự án theo Kế hoạch 27 của UBND tỉnh; rà soát đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bố trí kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng và triển khai xây dựng công trình ngay sau khi dự án được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án trong danh mục kêu gọi đầu tư theo kế hoạch trên. Hằng năm, các huyện chủ động xem xét, ưu tiên bố trí nguồn vốn từ ngân sách địa phương, vốn chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn vốn hợp pháp khác để duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp mở rộng các công trình cấp nước tập trung đã đầu tư ở các giai đoạn trước đang xuống cấp nhằm duy trì ổn định việc cấp nước sinh hoạt cho người dân. Đồng thời chỉ đạo xây dựng bộ máy đáp ứng với năng lực, trình độ kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để bảo đảm công tác quản lý, vận hành, khai thác hiệu quả công trình; rà soát, đánh giá hiệu quả sử dụng, khai thác và thực hiện thủ tục thanh lý đối với các công trình cấp nước tập trung đã xuống cấp, không còn hoạt động nhiều năm…
Nguồn: Phú Yên tìm giải pháp bền vững cho những công trình nước sạch nông thôn