Sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ và không gian biển
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà: Vấn đề tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu... là tâm huyết và trách nhiệm suốt đời Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 - 2030 phải mang tính chiến lược |
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam là quốc gia biển với đường bờ biển dài hơn 3260 km cung cấp vốn tự nhiên lớn cho phát triển kinh tế biển và có nhiều tiềm năng điện gió ven bờ và ngoài khơi, nếu được phát triển hợp lý sẽ góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và giúp Việt Nam đạt được các cam kết trung hòa carbon vào 2050.
Trong những năm qua, đứng trước những thách thức về ô nhiễm môi trường, sự suy giảm nguồn lợi và tài nguyên biển và tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã tích cực xây dựng và triển khai thực hiện chính sách, pháp luật phục vụ công tác quản lý nhà nước về biển và hải đảo tăng cường hợp tác quốc tế. Trong đó, nổi bật là Luật Quy hoạch, Luật Biển Việt Nam, Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2021/NĐ-CP ngày 10/2/2021 quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.
Đáng chú ý, tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu tổng quát là đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hóa sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng.
Việc lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ; bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên. |
Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân nhấn mạnh: Việc lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 26 của Chính phủ ngày 5/3/2020 về Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển trong phạm vi vùng bờ trên nền tảng tăng trưởng xanh; bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển kinh tế-xã hội; phát huy các tiềm năng, lợi thế của biển và hải đảo, tạo động lực phát triển kinh tế cho đất nước.
Đồng thời, tăng cường quản lý tổng hợp tài nguyên vùng bờ; bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển tự nhiên; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, tăng cường hợp tác khu vực và toàn cầu; bảo đảm quyền tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với bảo vệ môi trường biển, hải đảo và phát triển bền vững kinh tế biển trong phạm vi vùng bờ.
Các mục tiêu cụ thể được kể đến như: về kinh tế, tối đa hóa lợi ích và hạn chế đến mức thấp nhất các mâu thuẫn trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ; phân bổ hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên vùng bờ cho các ngành, lĩnh vực và các địa phương có biển trong phát triển kinh tế - xã hội; tạo nhiều sinh kế và nâng cao mức sống cho cộng đồng dân cư ven biển…Phát triển thành công, đột phá các ngành kinh tế biển ở vùng bờ theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ số, kỹ thuật tiên tiến, thân thiện với môi trường, góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển đạt trên 7,5%/năm, hướng đến mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Mới đây, tại hội thảo về Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đại diện Cục Biển và Hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, phạm vi quy hoạch bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển: Vùng biển ven bờ có ranh giới trong là đường mép nước biển thấp nhất trung bình nhiều năm và ranh giới ngoài cách đường mép nước biển thấp nhất trung bình nhiều năm ra đến 6 hải lý do Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định và công bố; vùng đất ven biển bao gồm các xã, phường, thị trấn có biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển.
Quy hoạch được lập trên cơ sở tích hợp các quy hoạch ngành quốc gia có liên quan trong phạm vi vùng bờ nhưng có sự điều chỉnh, xử lý đối với các vùng chồng lấn sử dụng không gian vùng bờ; bảo đảm sự hài hoà trong khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững vùng bờ. Trong đó, về văn hóa xã hội, bảo vệ, gìn giữ toàn vẹn các di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, bản sắc của mỗi dân tộc ở vùng bờ. Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm quyền tiếp cận đến biển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, phúc lợi xã hội của người dân ven biển; tăng cường sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường và các giá trị văn hóa, lịch sử ở vùng bờ.
Về môi trường, quản lý, bảo vệ hiệu quả các hệ sinh thái hiện hữu ở vùng bờ; phục hồi, tăng diện tích các khu bảo tồn trên các vùng đất ven biển và vùng biển ven bờ thuộc vùng bờ, để đóng góp vào mục tiêu đạt tối thiểu 6% diện tích các khu bảo tồn biển và ven biển. Quản lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm từ đất liền, ô nhiễm rác thải nhựa ở vùng bờ góp phần giảm 75% rác thải nhựa trên biển, 100% các khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa trong phạm vi vùng bờ, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa ở vùng bờ được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ở vùng bờ có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định về môi trường...
Nguồn:Sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ và không gian biển