Tăng cường bảo vệ môi trường tại các nhà máy nhiệt điện than
Các điểm “nóng” về ô nhiễm đã được kiểm soát chặt Nâng cao ý thức của người dân, cộng đồng về bảo vệ môi trường |
Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), cả nước có 33 nhà máy nhiệt điện đốt than (NMNĐ) đang vận hành. Nhà máy có thời gian vận hành lâu nhất là NMNĐ Ninh Bình công suất 100 MW (vận hành được 47 năm, từ năm 1976), nhà máy mới nhất đưa vào vận hành là NMNĐ Vân Phong 1 công suất 1.432 MW (Quý III năm 2023). Trong số 33 NMNĐ đang hoạt động, trong đó 10 nhà máy dùng công nghệ đốt lò hơi tầng sôi tuần hoàn (CFB) sử dụng than nội địa chất lượng thấp (cám 6 hoặc đuôi cám 6), 23 nhà máy dùng công nghệ than phun (PC) sử dụng than nội địa chất lượng tốt hơn (cám 5), than nhập bitum và á bitum với tổng công suất là 27.264 MW.
Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp cho biết, đa số các NMNĐ đang vận hành sử dụng công nghệ (thông số hơi) cận tới hạn (Sub - Super Critical) có hiệu suất chuyển đổi năng lượng dưới 40% và hai nhà máy sử dụng công nghệ siêu tới hạn (SC) có hiệu suất chuyển đổi năng lượng có thể đến 42%. Các NMNĐ đang xây dựng và chuẩn bị đầu tư đều được áp dụng công nghệ SC và công nghệ trên siêu tới hạn (USC) có hiệu suất chuyển đổi năng lượng cao, phát thải thấp (hiệu suất chuyển đổi năng lượng có thể đạt đến 45%).
Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong sản xuất, các nhà máy nhiệt điện than chú trọng đầu tư công nghệ, thiết bị xử lý khí thải... |
Các nhà máy đều được trang bị các thiết bị xử lý khói thải như: Thiết bị xử lý bụi bằng công nghệ lọc bụi tĩnh điện (Hệ thống ESP) có hiệu suất cao trên 99,9%, thiết bị khử Lưu huỳnh oxit (SO2) bằng sữa đá vôi (Hệ thống FGD) hoặc nước biển (Sea FGD), thiết bị khử Nito Oxit (NOx) bằng hóa chất Amoniac NH3 có xúc tác (Hệ thống SCR) với hiệu suất cao trên 85% hoặc vòi đốt Low NOx. Sau khi qua các hệ thống xử lý khói thải nói trên, nồng độ phát thải bụi, SO2, NOx trong khói đều được xử lý đáp ứng tiêu chuẩn môi trường theo QCVN 22:2009/BTNMT và QCVN 05:2009/BTNMT. Về lượng tro, xỉ phát thải từ các nhà máy nhiệt điện, lượng phát sinh hàng năm ước khoảng trên 16 triệu tấn và lượng tiêu thụ đạt trên 14 triệu tấn/năm (đạt khoảng hơn 87% lượng phát thải, tăng rất nhiều qua các năm). Ngoài ra, còn lượng tồn tại các bãi lưu trữ dồn qua các năm là khoảng 48,4 triệu tấn.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn không ít khó khăn, vướng mắc trong công tác bảo vệ môi trường tại các nhà máy nhiệt điện. Ðó là các nhà máy này đều sử dụng lượng lớn nước để làm mát sau quá trình trao đổi nhiệt trước khi xả ra kênh tự nhiên và đưa ra sông hoặc biển. Ðiều này dẫn đến trường hợp nước làm mát khi xả ra môi trường tiếp nhận vượt tiêu chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT. Bên cạnh đó, một số nhà máy được đầu tư trong giai đoạn trước như: Ninh Bình, Phả Lại 1,… chưa lắp đặt hệ thống xử lý lưu huỳnh và khi vận hành đầy tải vẫn có khả năng không đáp ứng được các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, quá trình hoạt động của các nhà máy sử dụng công nghệ lò tầng sôi tuần hoàn, nhất là những nhà máy sử dụng công nghệ cũ, cũng tạo ra lượng lớn tro xỉ còn thành phần vôi, có tính dãn nở khi gặp ẩm, cho nên khó tái sử dụng làm vật liệu xây dựng, phụ gia xi-măng và hiện nay chỉ có thể lưu giữ tại bãi thải.
Thời gian qua, Bộ Công Thương đã triển khai nhiều giải pháp nhằm thực hiện công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác bảo vệ môi trường đối với các nhà máy nhiệt điện nói riêng. Trong đó, Bộ Công Thương đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-BCT ngày 19/10/2016 về việc tăng cường bảo vệ môi trường ngành Công Thương. Tập trung yêu cầu các NMNĐ thực hiện nhiều giải pháp (hoàn thiện hệ thống quan trắc tự động, liên tục, cung cấp thông tin về kết quả quan trắc, giám sát trên trang thông tin điện tử của công ty, thay thế dầu FO sử dụng cho khởi động lò và đốt kèm bằng dầu DO nhằm giảm lượng tro, bụi, SO2, NOx, đưa hệ thống ESP vào hoạt động ngay từ giai đoạn đầu, …) và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Xử lý tro xỉ là một trong những nhiệm vụ quan trọng đang được đẩy mạnh triển khai. |
Trước ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, việc thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam, thời gian tới, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó sẽ phối hợp với các Bộ ngành liên quan để xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp môi trường gắn với ngành năng lượng.
Theo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam sẽ không xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030 để đảm bảo giảm phát thải carbon và mục tiêu cam kết tại COP 26 về trung hòa carbon. Để thực hiện mục tiêu này, tất cả các phương án đề xuất, tính toán đều phải thực hiện chuyển đổi năng lượng tại Quy hoạch điện VIII. Theo đó, ưu tiên khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện; tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo (tính cả thủy điện) đạt khoảng 30,9 - 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) với Việt Nam được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất và khoảng 67,5 - 71,5% vào năm 2050.
Thực hiện khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước kết hợp với nhập khẩu: Giảm dần tỷ trọng nhiệt điện than, ưu tiên phát triển điện khí trong nước, phát triển các nguồn điện khí LNG nhập khẩu với quy mô phù hợp. Thực hiện chuyển dịch năng lượng bám sát xu thế phát triển công nghệ và giá thành trên thế giới. Dự kiến, năm 2030, tổng công suất các nhà máy nhiệt điện than đang vận hành và các dự án đang triển khai xây dựng, khả năng sẽ hoàn thành và đưa vào vận hành khoảng 30.127 MW. Định hướng năm 2050, không còn sử dụng than để phát điện, chuyển hoàn toàn sang sinh khối/amoniac, tổng công suất 25.632 - 32.432 MW, sản xuất 72,5 - 80,9 tỷ kWh (5,3 - 6,6% tổng điện năng sản xuất).
Ngoài ra, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường sửa đổi các chính sách bảo vệ môi trường bao gồm: Nghị định 08/2022/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật Bảo vệ môi trường; Quy chuẩn 22:2009/BTNMT - Quy chuẩn về khí thải công nghiệp nhiệt điện để đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu ngày cao về bảo vệ môi trường.
Tăng cường chỉ đạo các nhà máy nhiệt điện đầu tư cải tạo, nâng cấp thiết bị máy móc và hệ thống bảo vệ môi trường để đáp ứng tốt hơn yêu cầu chất lượng môi trường theo phân vùng môi trường được phê duyệt tại quy hoạch phát triển của địa phương. Chỉ đạo các NMNĐ nghiên cứu, thí nghiệm việc pha trộn giữa than nội địa với than nhập khẩu để nâng cao hiệu quả kinh tế, an toàn và đảm bảo tốt hơn về môi trường như giảm lượng phát thải, tro xỉ, khí thải.
Thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường chỉ đạo các nhà máy nhiệt điện than đầu tư cải tạo, nâng cấp thiết bị máy móc và hệ thống bảo vệ môi trường để đáp ứng tốt hơn yêu cầu chất lượng môi trường. Một trong những giải pháp kỹ thuật cần quan tâm là đẩy mạnh việc nghiên cứu, thí nghiệm pha trộn giữa than nội địa với than nhập khẩu để nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm lượng phát thải. Ðối với vấn đề tro xỉ thải, nhiều năm qua, lượng tro xỉ thải của các nhà máy nhiệt điện than công nghệ mới đã cơ bản được tiêu thụ, chủ yếu lượng tồn kho là từ các nhà máy sử dụng công nghệ cũ.
Nguồn:Tăng cường bảo vệ môi trường tại các nhà máy nhiệt điện than