Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp khơi thông, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước gắn với tăng cường quản lý thị trường
Làm sao để Việt Nam thực sự là đích đến của nhà đầu tư nước ngoài Hình thành thị trường tín chỉ carbon rừng của Việt Nam |
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan gian trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Long _Ảnh: TTXVN |
Kết quả đạt được và một số vấn đề đặt ra
Khơi thông, phát triển thị trường trong nước ổn định và lành mạnh, bảo đảm Nhà nước kiểm soát được tình hình, quản lý tốt hàng hóa lưu thông và điều tiết hiệu quả các quan hệ cung - cầu, góp phần kiềm chế đột biến giá cả, giữ vững cân đối vĩ mô, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống xã hội là những yêu cầu tất yếu và cấp thiết của sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi kinh tế trong nước và thế giới đang gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh và căng thẳng địa - chính trị, làm cho xuất khẩu, đầu tư sụt giảm và kinh tế suy thoái trên toàn cầu, việc khơi thông thị trường trong nước góp phần kích cầu tiêu dùng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng bền vững.
Thị trường trong nước được coi là điểm tựa của nền kinh tế, của hệ thống doanh nghiệp và sản phẩm, hàng hóa trong nước, có tác động mạnh mẽ tới động lực tăng trưởng. Nếu thị trường xuất khẩu (với vai trò là động lực) và tiêu dùng nội địa (đóng vai trò là điểm tựa) phát triển không ổn định, thì nền kinh tế cũng khó đạt được tăng trưởng như kỳ vọng. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm như hiện nay, thị trường nội địa trở thành cơ sở cho tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Trong nhiều văn kiện của Đảng, việc phát triển thị trường trong nước thông qua chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, sử dụng hiệu quả nguồn lực và tận dụng tối đa thành tựu từ hội nhập và khoa học kỹ thuật gắn với phát triển bền vững được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để phát triển kinh tế và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước thời gian qua cũng như trong giai đoạn tới. Cụ thể, Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định: Phát triển thị trường trong nước là một trong những định hướng ưu tiên trong mô hình tăng trưởng kinh tế với quan điểm đặt ra là “Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế”(1).
Bên cạnh đó, tại Thông báo kết luận số 264-TB/TW, ngày 31-7-2009, Bộ Chính trị đã đồng ý chủ trương tổ chức Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm mục đích phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất nhiều hàng Việt Nam có chất lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tại Kết luận số 107-KL/TW, ngày 10-4-2015, Ban Bí thư tiếp tục yêu cầu đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm phát huy lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc của người Việt Nam trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng Việt Nam, góp phần giữ vững ổn định sản xuất, bảo đảm sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội của đất nước.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục nêu rõ phương hướng phát triển thị trường trong nước giai đoạn 2016 - 2020: “Phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ. Chú trọng phát triển thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, các hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước. Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu”(2). Ngoài ra, Nghị quyết số 35/NQ-CP, ngày 16-5-2016, của Chính phủ, “Về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020”, đặt ra nhiệm vụ “xây dựng Đề án tổ chức lại thị trường trong nước” và “đẩy mạnh Chương trình Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đây là căn cứ quan trọng để ngành công thương tiếp tục cụ thể hóa thành nhiệm vụ, giải pháp đối với phát triển thị trường trong nước giai đoạn vừa qua.
Triển khai chủ trương, chính sách và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, thời gian qua, ngành công thương đã tập trung tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về phát triển thị trường trong nước và đạt được những kết quả nổi bật. Nhiều chính sách về hoàn thiện thể chế, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phân phối, khuyến khích tiêu dùng... đã được ban hành và triển khai tích cực, tạo thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, nhà sản xuất trong nước đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh, từng bước mở rộng thị trường và phát triển, đóng góp vào thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tế giai đoạn từ năm 2011 đến nay, hoạt động thương mại trong nước đạt được những kết quả quan trọng, tạo ra nhiều hơn giá trị tăng thêm, lưu thông hàng hóa thông suốt, sức mua và quy mô thị trường ngày càng lớn. Theo Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng không ngừng gia tăng, từ 1.677,3 nghìn tỷ đồng (năm 2010) lên 3.223,2 nghìn tỷ đồng (năm 2015) và khoảng 5.679,9 nghìn tỷ đồng (năm 2022). Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2011 - 2022 của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là 10,7%/năm. Đồng thời, thương mại trong nước phát triển cũng hỗ trợ tích cực cho công tác giải quyết việc làm khi thu hút khoảng 6 - 7 triệu người lao động (chiếm hơn 12% tổng lao động toàn xã hội). Trên cơ sở gia tăng thu nhập và mở rộng hệ thống phân phối, dịch vụ cung ứng hàng hóa, thương mại trong nước đóng một vai trò quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, nhờ đó góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, xóa đói, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Có thể thấy, thương mại trong nước cùng với xuất khẩu và công nghiệp chế biến, chế tạo hình thành các trụ đỡ quan trọng trong bảo đảm mục tiêu tăng trưởng của ngành công thương nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung. Nhìn chung, trong giai đoạn vừa qua, thương mại trong nước góp phần tạo nên bức tranh kinh tế với nhiều nét nổi bật, trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau:
Thứ nhất, một thị trường thống nhất và ổn định trên toàn quốc đã hình thành, thương mại sôi động, mạng lưới tổ chức phân phối hàng hóa, nhất là hàng hóa thiết yếu trong nước đã được thiết lập chặt chẽ và khá vững chắc, gắn kết sản xuất - chế biến với thị trường và tiêu dùng. Đội ngũ thương nhân ngày càng đông đảo và đa dạng. Mạng lưới kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tiếp tục “phủ sóng” trên cả ba vùng: thành thị, nông thôn và miền núi, góp phần gắn chặt sản xuất với tiêu thụ, hàng hóa với thị trường, thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Thứ hai, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình kinh doanh tiên tiến, hiện đại cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại phát triển ngày càng đa dạng, kết hợp truyền thống với hiện đại, góp phần đổi mới cấu trúc thị trường theo hướng chuyên nghiệp, đa dạng, bắt đầu áp dụng các tiêu chuẩn về an toàn, vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường,... đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ ba, các giải pháp điều tiết, kết nối cung cầu, bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết yếu và bình ổn thị trường được triển khai quyết liệt, góp phần thực hiện các mục tiêu cân đối lớn của nền kinh tế và kiểm soát lạm phát của Chính phủ.
Thứ tư, công tác hỗ trợ doanh nghiệp phân phối tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị trong và ngoài nước tiếp tục được chú trọng. Trong hoạt động tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản và mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, các giải pháp được triển khai đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động thu mua của hợp tác xã, doanh nghiệp và hộ sản xuất được kết nối khá chặt chẽ với hệ thống cơ sở chế biến, phân phối tại các địa bàn trên phạm vi cả nước.
Thứ năm, trong công tác quản lý thị trường, một mặt, trật tự, kỷ cương đang từng bước được xác lập, hạn chế vi phạm pháp luật trong hoạt động phân phối, tiêu thụ hàng hóa; mặt khác, các điều kiện đầu tư, kinh doanh cũng liên tục được cắt giảm, từng bước chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 - 4 trong giải quyết thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chủ thể tham gia thị trường, làm cơ sở cho việc phát triển thị trường trong nước thông thoáng, ổn định và lành mạnh, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những cơ hội mới và vị thế ngày càng cao. Trong bối cảnh đó, tầm quan trọng của thị trường trong nước càng được đặc biệt chú trọng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 - một trong những văn kiện quan trọng của Đại hội XIII của Đảng - nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung cũng như đặt ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp: “Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia. Thúc đẩy phát triển thương mại trong nước theo hướng hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm; bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng”(3).
Quán triệt chủ trương, quan điểm chỉ đạo đó, Bộ Công Thương đã xây dựng Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1163/QĐ-TTg, ngày 13-7-2021. Chiến lược đặt mục tiêu phấn đấu giá trị tăng thêm thương mại trong nước giai đoạn từ nay đến năm 2030 tăng bình quân khoảng 9 - 9,5%/năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 13 - 13,5%/năm và đặc biệt nhấn mạnh các nhiệm vụ, giải pháp về bảo đảm tiêu thụ - đầu ra cho hàng hóa, sản phẩm thương hiệu của Việt Nam trên cơ sở phát huy nội lực, tiềm năng và dư địa phát triển của thị trường trong nước.
Nếu xét về tiềm năng và dư địa phát triển thì thị trường trong nước có nhiều điều kiện để nắm bắt cơ hội và thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đặt ra. Ở trong nước, thị trường tiêu thụ của Việt Nam được đánh giá là hấp dẫn với quy mô dân số trên 100 triệu người, cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18 - 50), tốc độ đô thị hóa nhanh, thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng lên khoảng 7.500 - 8.000 USD vào năm 2030. Cùng với nhiều lợi thế khác, như tầng lớp trung lưu có xu hướng tăng nhanh và tỷ lệ tiêu dùng so với GDP bình quân đầu người cũng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70%), có thể nhận thấy, thị trường trong nước giai đoạn tới có rất nhiều cơ hội để phát triển.
Trong khi đó, chủ trương, chính sách về hội nhập và phát triển kinh tế đất nước sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho hàng hóa, doanh nghiệp trong nước có thể kết nối và thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất, cung ứng toàn cầu. Các hiệp định thương mại song phương và đa phương mà nước ta là thành viên đã và đang tiếp tục mở rộng cánh cửa tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế, trong đó có 15/20 nước G20, độ mở thương mại của quốc gia hiện nay đạt trên 200% GDP. Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng đã trở thành một thị trường cửa ngõ quan trọng khi giờ đây, đầu tư vào Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc có thể tiếp cận được với hầu hết thị trường lớn của thế giới.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách khách quan rằng, năng lực phản ứng của thị trường trong nước thời gian qua vẫn còn hạn chế trước những biến động tiêu cực của thị trường thế giới và chưa có khả năng “tiếp nhận” nhanh sự điều tiết phù hợp của Nhà nước, đặc biệt là trong tình huống căng thẳng, gay gắt. Không những thế, dưới tác động của quá trình hội nhập và mặt trái của cơ chế thị trường trong vận hành nền kinh tế, hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ; hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, vi phạm pháp luật về chất lượng, đo lường, giá cả, an toàn thực phẩm, vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; gian lận thương mại, đặc biệt là hành vi gian lận trên không gian mạng, thương mại điện tử có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp. Giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 10-2018, trung bình mỗi năm lực lượng quản lý thị trường phát hiện, xử lý trên 70.000 vụ vi phạm, thu nộp ngân sách nhà nước khoảng 400 tỷ đồng. Từ khi mô hình Tổng cục Quản lý thị trường ra đời cuối năm 2018 đến nay, lực lượng quản lý thị trường đã phát hiện, xử lý 353.333 vụ vi phạm, xử phạt vi phạm hành chính trên 1.800 tỷ đồng; trị giá hàng hóa tịch thu trên 707 tỷ đồng; trị giá hàng hóa tiêu hủy/chuyển giao trên 896 tỷ đồng; chuyển 664 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra(4), bảo vệ và duy trì sự ổn định của thị trường trong nước, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Để tiếp tục tăng cường công tác quản lý thị trường trong tình hình mới, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg, ngày 29-3-2023, “Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025”, với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức để các cấp, các ngành, người dân, doanh nghiệp tự giác chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong công tác chống hàng giả và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tạo niềm tin cho chủ thể tham gia hoạt động giao dịch, mua bán trực tuyến cũng như bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên kiểm tra thực tế công tác vận hành nhà máy của Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn _Nguồn: tapchicongthuong.vn |
Những giải pháp trong thời gian tới
Trong thời gian tới, với yêu cầu vừa khắc phục hạn chế, vừa tập trung phát huy tiềm năng, nắm bắt cơ hội như đã nêu ở trên, áp lực thúc đẩy phát triển thị trường trong nước càng trở nên cấp thiết và có vai trò ngày càng quan trọng trước mục tiêu to lớn là đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Đồng thời, khơi thông, thúc đẩy thị trường trong nước cũng là yêu cầu khách quan từ quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi tình hình quốc tế đang trở nên bất định, khó lường hơn dưới tác động của căng thẳng địa - chính trị và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, biến đổi khí hậu gia tăng và thiên tai, dịch bệnh. Điều đó đòi hỏi Nhà nước có định hướng chính sách và giải pháp phù hợp, đồng bộ, trong đó cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách để tổ chức lưu thông hàng hóa và điều tiết tốt quan hệ cung - cầu. Ngoài ra, tiếp tục tạo lập, xây dựng môi trường kinh doanh ổn định, thuận tiện song song với tăng cường công tác quản lý thị trường một cách hiệu quả, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên thị trường nội địa. Có thể nhận thấy, thị trường trong nước thời gian tới phát triển trong bối cảnh được quy định bởi ba điều kiện chủ yếu:
Một là, tiếp tục mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa trong nước, kích cầu mua sắm trong bối cảnh tiết chế tiêu dùng trong nước và quốc tế thời gian qua. Thị trường và tiêu thụ hàng hóa phải tạo động lực để gia tăng sản xuất, tạo tiền đề thúc đẩy chu trình tái sản xuất, phục hồi xuất khẩu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Hai là, thực thi toàn diện các cam kết về dịch vụ phân phối theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết, nhất là các FTA thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), các hiệp định trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)... Theo đó, thị trường trong nước sẽ có cạnh tranh gay gắt hơn với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, về dài hạn, cần xác định phát triển thị trường trong nước không chỉ dựa vào khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước (dù là rất quan trọng), mà còn phải thông qua hoạt động tổ chức thị trường một cách khoa học, hợp lý. Muốn vậy, phải có hệ thống phân phối trong nước vững chắc với các yếu tố cấu thành đủ mạnh cùng với nền tảng luật pháp, chính sách phát triển hiệu quả.
Ba là, hạn chế tối đa nguy cơ từ quá trình hội nhập có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến trật tự, kỷ cương trên thị trường trong nước. Phòng, chống và xử lý kịp thời hoạt động vận chuyển, buôn bán hàng lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hoạt động xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại (đặc biệt là trên không gian mạng và trong hoạt động thương mại điện tử) gây thất thu ngân sách nhà nước và thiệt hại cho người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp làm ăn chân chính, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Chế biến thủy sản xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long _Ảnh: TTXVN |
Trong bối cảnh đó, trọng tâm của phương hướng, nhiệm vụ phát triển thị trường trong nước giai đoạn tới, một mặt, cần chú trọng khơi thông, khắc phục các điểm nghẽn, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường trong nước, hỗ trợ mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp Việt Nam có thể tận dụng được thời cơ, vượt qua thách thức từ quá trình hội nhập để phát triển bền vững; mặt khác, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thị trường nhằm phòng, chống và xử lý kịp thời, hiệu quả các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực và kìm hãm sự phát triển của thị trường nội địa. Trên cơ sở đó, cần tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số giải pháp:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh thực thi các đề án, chương trình khai thác thị trường trong nước(5); tổ chức thường xuyên, liên tục hoạt động quảng bá cho doanh nghiệp Việt Nam, hàng Việt Nam và các sáng kiến kết nối cung - cầu, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, triển khai hiệu quả giải pháp về “Gia tăng cầu tiêu dùng cuối cùng trong nước, phát triển doanh nghiệp phân phối, gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết các chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa” được xác định tại Chiến lược “Phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 19-5-2021, của Ban Bí thư, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trong tình hình mới”; Quyết định số 386/QĐ-TTg, ngày 17-3-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025”...
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, xây dựng khung khổ pháp luật, chính sách, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng cho đầu tư, kinh doanh trên thị trường trong nước, thiết lập trật tự thị trường để thích ứng với bối cảnh, tình hình mới.
Thứ ba, đẩy mạnh cơ cấu lại lĩnh vực thương mại trong nước theo hướng đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của nền kinh tế và khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường khả năng tham gia chuỗi giá trị và các hệ sinh thái cung ứng toàn cầu và khu vực.
Thứ tư, tiếp tục khai thác có hiệu quả thị trường trong nước còn nhiều tiềm năng với quy mô dân số và thu nhập đang ngày càng tăng; xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng thương mại trong nước đồng bộ, hiện đại và bền vững, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nước và hỗ trợ xuất khẩu.
Thứ năm, phát triển đa dạng loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại trong nước; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh đổi mới phương thức hoạt động theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp.
Thứ sáu, cần có chính sách hiệu quả trong thu hút đầu tư từ các tập đoàn bán lẻ nước ngoài để có đóng góp tích cực hơn cho nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tăng cường nội lực để có thể cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngoài; hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, chủ thể có thể tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa nông sản.
Thứ bảy, đổi mới quản lý nhà nước đối với thương mại trong nước theo hướng tôn trọng quy tắc vận hành của thị trường, song Nhà nước cần đầu tư nguồn lực để có thể điều tiết thị trường, can thiệp hiệu quả khi cần thiết.
Thứ tám, các nhiệm vụ, giải pháp nêu trên cần được thực hiện đồng thời và gắn liền với nhiệm vụ, giải pháp về đẩy mạnh, tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý thị trường, hướng tới thay đổi toàn diện phương thức hoạt động theo hướng ưu tiên phòng ngừa, giám sát. Cụ thể:
Một là, kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thị trường và xử lý vi phạm trong hoạt động thương mại, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với thị trường trong nước trong tình hình mới.
Hai là, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, ứng dụng triệt để công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành và công tác kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính của lực lượng quản lý thị trường. Thực hiện hiệu quả 5 nhiệm vụ cơ bản của “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 3-6-2020, của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang, thiết bị, xây dựng và đồng bộ hệ thống cơ sở dữ liệu ngành để chủ động phản ứng nhanh, thông suốt và hiệu quả, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc truy xuất nguồn gốc, truy vết sản phẩm gắn với phát triển hệ thống thương mại điện tử tập trung. Đồng thời, xây dựng và triển khai hệ thống giám sát, cảnh báo sớm nguy cơ, điều phối ứng cứu sự cố mất an toàn, an ninh mạng trên toàn hệ thống của lực lượng quản lý thị trường.
Ba là, nâng cao năng lực quản lý và triển khai hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm để phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả; đồng thời, có cơ chế giám sát, phát hiện và xử phạt đủ mạnh để răn đe, tạo sự tuân thủ nghiêm pháp luật về quản lý thị trường; xử lý tốt tranh chấp để xây dựng niềm tin cũng như bảo vệ quyền lợi và sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt là trong hoạt động thương mại trên không gian mạng và thương mại điện tử. Bên cạnh đó, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành triển khai hiệu quả 6 nhóm giải pháp đã nêu trong Quyết định số 319/QĐ-TTg, ngày 29-3-2023, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025”: 1- Hoàn thiện quy định pháp lý về thương mại điện tử và bảo vệ người tiêu dùng; 2- Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng; phát triển hạ tầng, thiết bị bảo đảm an ninh an toàn thông tin phục vụ công tác chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử; 3- Nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong hoạt động thực thi pháp luật về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử; 4- Nâng cao hiệu quả trong công tác phối hợp, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm giữa các cơ quan, lực lượng chức năng có liên quan; 5- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử; 6- Hợp tác quốc tế về công tác chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử.
Bốn là, tăng cường hoạt động nghiên cứu và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc xuất xứ, tem chống giả, cơ sở dữ liệu tra cứu phát hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ... nhằm xây dựng hệ thống thực thi pháp luật về quản lý thị trường các cấp theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Năm là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế trong công tác quản lý thị trường: tiếp tục tăng cường hợp tác với cơ quan, tổ chức, nhãn hàng lớn trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho công chức, cũng như phối hợp thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm.
Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về hoạt động thương mại trong nước và xác định đây là mặt trận quan trọng tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, tự giác chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội./.
-------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 102
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 287
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 247 - 248
(4) Theo: Số liệu thống kê của Tổng cục Quản lý thị trường đến tháng 10-2023
(5) Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 386/QĐ-TTg, ngày 17-3-2021, của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025 theo Quyết định số 1162/QĐ-TTg, ngày 13-7-2021, của Thủ tướng Chính phủ; Đề án Đổi mới phương thức kinh doanh tiêu thụ nông sản giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 194/QĐ-TTg, ngày 9-2-2021, của Thủ tướng Chính phủ