Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số
Tập trung xây dựng ba nền tảng thể chế, kinh tế, văn hóa, nâng cao hiệu quả, kết quả phòng, chống tham nhũng, tiêu cực Phát huy vai trò Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung |
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số quốc gia là quá trình thay đổi toàn diện và tổng thể của quốc gia về về cách thức, phương thức quản trị quốc gia dựa trên nền tảng công nghệ số. Hiện nay, chuyển đổi số quốc gia có nhiều cơ hội và thách thức. Chuyển đổi số quốc gia giúp tận dụng các công nghệ tiên tiến như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật… để cải thiện chất lượng, hiệu quả và tiếp cận của các dịch vụ công, tăng cường giao tiếp và hợp tác giữa các cơ quan nhà nước và người dân. Chuyển đổi số quốc gia giúp tạo ra những sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh tế mới, phù hợp với nhu cầu và xu hướng của thị trường toàn cầu. Chuyển đổi số quốc gia cũng giúp nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức của người dân trong xã hội học tập. Tuy nhiên, chuyển đổi số quốc gia đòi hỏi sự thay đổi lớn về nhận thức, hành vi và văn hóa của các cá nhân, tổ chức trong việc ứng dụng công nghệ số. Chuyển đổi số quốc gia gặp phải những khó khăn về cơ sở hạ tầng, an ninh mạng, bảo mật thông tin và bảo vệ quyền riêng tư. Chuyển đổi số quốc gia cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các quốc gia khác trong khu vực và thế giới.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu phát triển nhân lực số, công dân số, kỹ năng số và tài năng số; ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, con người số, Chính phủ số; phát triển hạ tầng số toàn diện nhưng phù hợp, tiết kiệm, hiệu quả; số hóa, ứng dụng trí tuệ thông minh trong quản lý, điều hành; khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách chuyển đổi số theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 khẳng định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số”. Nội dung này cũng được đề cập trong 3 đột phá chiến lược, đặc biệt là Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” cũng đã chỉ rõ: “Thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội”; “Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành trung tâm dữ liệu quốc gia, trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất”.
Hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước phải gắn liền với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số. Trên tinh thần đó, việc sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; nghiêm túc thực hiện chính sách tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của các cấp, các ngành; thực hiện phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát quyền lực đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Thực tiễn hiện nay đòi hỏi bộ máy nhà nước phải tiếp tục được tổ chức và vận hành bộ máy quản lý một cách chủ động, linh hoạt, hiệu quả và nhanh chóng hơn. Do đó, cần phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền khoa học, hợp lý, đi đôi với nâng cao trách nhiệm, gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực thực hiện pháp luật cho các địa phương và các bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo đảm quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ. Xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ; giữa các bộ với nhau; giữa Chính phủ, các bộ với chính quyền địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; phân định rõ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể, đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước; quy định rõ cơ chế phân cấp, ủy quyền.
2. Thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước
2.1. Thể chế về tổ chức bộ máy
Thực hiện các nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) (Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập), Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo đảm phù hợp với chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện.
Trên tinh thần đó, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 và ban hành 5 nghị định về lĩnh vực tổ chức bộ máy. Cụ thể như sau:
– Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019. Nội dung của Luật tập trung vào việc thể chế hóa chủ trương cải cách tổ chức bộ máy hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập theo chỉ đạo của Đảng và của Quốc hội, tạo cơ sở pháp lý cho Chính phủ ban hành các Nghị định về sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
– Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.Nội dung Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí thành lập các tổ chức hành chính thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và số lượng cấp phó của các tổ chức, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, làm cơ sở cho các bộ, cơ quan ngang Bộ Xây dựng phương án kiện toàn tổ chức của cơ quan mình theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
– Nghị định số 47/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 quy định về cơ quan thuộc Chính phủ. Nội dung của Nghị định tập trung quy định về tiêu chí thành lập tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ và số lượng cấp phó của các tổ chức, đơn vị thuộc và trực thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, làm cơ sở cho các cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng phương án kiện toàn tổ chức của cơ quan mình theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
– Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Các nghị định quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tập trung sửa đổi, bổ sung theo 6 nhóm vấn đề sau: (1) Tiêu chỉ thành lập cơ quan chuyên môn đặc thù (dân tộc, du lịch, ngoại vụ, quy hoạch và kiến trúc); (2) Tiêu chí thành lập tổ chức và số lượng biên chế tối thiểu để được thành lập tổ chức thuộc sở, thuộc chi cục thuộc sở; (3) Người đứng đầu và số lượng cấp phó; (4) Nhiệm vụ, quyền hạn chung của cơ quan chuyên môn và điều chỉnh chức năng của một số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện; (5) Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và của chính quyền địa phương; (6) Quy định điều khoản chuyển tiếp đối với các cơ quan chuyên môn đã thực hiện thí điểm hợp nhất và lộ trình sắp xếp số lượng cấp phó của các tổ chức, đơn vị sau sáp nhập, hợp nhất làm cơ sở cho chính quyền địa phương sắp xếp, kiện toàn tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Riêng hai vấn đề: (1) Không mở rộng thí điểm hợp nhất, sáp nhập các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (Bộ Chính trị đã có Kết luận số 74-KL/TW ngày 22/5/2020 và Thông báo kết luận số 16-TB/TW ngày 07/7/2022); (2) Khung số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện vẫn giữ, như: Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP (chưa sửa đổi).
– Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 55/2012/NĐ-CP). Nội dung của Nghị định tập trung các nhóm vấn đề sau: (1) Hệ thống hóa các loại hình đơn vị sự nghiệp công lập theo cấp quản lý; (2) Hoàn thiện các nội dung quy định về hồ sơ đề nghị thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; (3) Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan đề nghị, thẩm định, quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; (4) Hoàn thiện trình tự, thủ tục trong việc trình, thẩm định, quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập; (5) Quy định tự chủ về tổ chức bộ máy của đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhìn chung, các luật, pháp lệnh về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được ban hành trên tinh thần thể chế hóa nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước; đổi mới cơ chế hoạt động, phân công, phối hợp và kiểm soát trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan; đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương theo hướng phân cấp, phân quyền, ủy quyền rành mạch, rõ ràng hơn nhằm hướng tới xây dựng một bộ máy nhà nước gọn về tổ chức và hiệu quả trong hoạt động.
Như vậy, các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan. Tính dân chủ được thể hiện ngày càng rõ nét trong các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Điều này thể hiện ở một số điểm như: quy định pháp luật về bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người dân tham gia vào quản lý nhà nước ngày càng hoàn thiện và được triển khai có hiệu quả trên thực tế; một số văn bản pháp luật liên quan đến công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình… đã được xây dựng, hoàn thiện nhằm góp phần tạo cơ sở để người dân tham gia vào hoạt động của cơ quan nhà nước, kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước. Về cơ bản, các văn bản pháp luật này đã ghi nhận quyền, nghĩa vụ, sự tham gia của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, tạo cơ sở cho việc giám sát của người dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.2. Thể chế về phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước
Từ năm 2016 đến nay, thể chế về phân quyền, phân cấp được quan tâm hoàn thiện nhiều hơn với các đạo luật quan trọng, như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019; Nghị quyết số 21/NQ-CP của Chính phủ ngày 21/3/2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24/6/2020 về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước và các kế hoạch khác tiếp tục đặt ra yêu cầu đẩy mạnh phân quyền, phân cấp; Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước… Trên cơ sở đó, các địa phương, nhất là các thành phố trực thuộc Trung ương đã tiếp tục ban hành thể chế phân định thẩm quyền quản lý nhà nước giữa các cấp chính quyền, thể hiện qua 5 nội dung trọng tâm của phân quyền, phân cấp là: (1) Quản lý ngân sách nhà nước; (2) Thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và phần vốn đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp; (3) Quản lý đầu tư; (4) Quản lý công vụ, công chức; (5) Quản lý đất đai.
Thể chế về phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước cụ thể được quy định như sau:
– Điều 52 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân”.
– Tại khoản 4 Điều 4 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ như sau: “Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương”; và tại khoản 1 Điều 25 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với chính quyền địa phương như sau: “Thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương theo quy định tại các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội”.
– Tại Điều 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định:
+ “Việc phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong các luật” và “Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền;
+ Cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương;
+ Các luật khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, của các cơ quan thuộc chính quyền địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương và phù hợp với các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quy định tại Luật này”.
– Tại Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định:
+ “Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”;
+ Việc phân cấp phải bảo đảm các nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này và phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp và cơ quan nhà nước được phân cấp;
+ Cơ quan nhà nước cấp trên khi phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới phải bảo đảm các nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp;
+ Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp”.
– Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả nêu rõ:
+ Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế;
+ Rà soát nhiệm vụ, quyền hạn để phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương để góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực.
– Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”.
– Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả đã quy định: “Đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương và giữa chính quyền cấp trên với chính quyền cấp dưới; giao quyền chủ động cho cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả”;
– Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nêu rõ:
+ “Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương;
+ Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
+ Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền khoa học, hợp lý, đi đôi với nâng cao trách nhiệm, gắn với bảo đảm nguồn lực, năng lực thực hiện pháp luật cho các địa phương và các bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; bảo đảm quản lý thống nhất của Chính phủ, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ. Xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ; giữa các bộ với nhau; giữa Chính phủ, các bộ với chính quyền địa phương; khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; phân định rõ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể, đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu trong các cơ quan hành chính nhà nước”.
– Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của Chính phủ đã giao các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm: “Rà soát các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc một cơ quan, tổ chức làm nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính và thực hiện phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành và giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương”.
– Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ đạo: “Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực”.
– Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước thể hiện rõ quan điểm:
+ “Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội về đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước trên cơ sở tuân thủ các quy định của Hiến pháp năm 2013 gắn với hoàn thiện thể chế; bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia;
+ Kế thừa và phát huy hiệu quả các quy định hợp lý về phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương; tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, khai thác hiệu quả và giải phóng các nguồn lực phát triển của địa phương, đặc biệt là các địa phương tự bảo đảm ngân sách, có vị trí, vai trò động lực trong phát triển kinh tế – xã hội vùng.
+ Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phải đi đôi với bảo đảm cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính để tổ chức thực hiện có hiệu quả, phù hợp với điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và yêu cầu quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực; kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành, lĩnh vực với quản lý theo lãnh thổ, bảo đảm một việc không quá 2 cấp hành chính quản lý.
+ Gắn việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp, các ngành với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và người dân thì giao cho cấp đó thực hiện.
+ Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước đi đôi với tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực gắn với cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu, tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, bảo đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật trong điều kiện đẩy mạnh phân cấp, phân quyền quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương”.
Đồng thời xác định rõ mục tiêu: “Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền nhằm phân định rõ nhiệm vụ và quyền hạn, thẩm quyền và trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ thống nhất, kịp thời, khả thi, ổn định, công khai, minh bạch, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm, bảo đảm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, nhất là người đứng đầu; đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, của pháp luật, góp phần xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phục vụ Nhân dân.”
– Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ về Quy chế làm việc của Chính phủ, trong đó có các nội dung đổi mới về quan điểm, nguyên tắc làm việc, chế độ trách nhiệm, cách thức chỉ đạo điều hành của Chính phủ cũng đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, sửa đổi các quy định về phân cấp, phân quyền để bảo đảm tính đồng bộ, theo đó các quy định về phân cấp, phân quyền cần thể hiện được tinh thần đổi mới, quyết liệt của Chính phủ về nguyên tắc làm việc, mối quan hệ công tác, trách nhiệm, phạm vi, cách thức giải quyết công việc của mỗi cấp, mỗi ngành. Cụ thể như sau:
+ “Mọi hoạt động của Chính phủ phải tuân thủ quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp giữa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể Chính phủ với quyền hạn, trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ và cá nhân từng thành viên Chính phủ. Chính phủ quyết định theo nguyên tắc đa số đối với các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
+ Đề cao trách nhiệm cá nhân và nêu gương của thành viên Chính phủ, người đứng đầu các bộ, cơ quan, địa phương. Mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một người chủ trì và chịu trách nhiệm. Trường hợp nhiệm vụ giao cho Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm.
+ Thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền, ủy quyền theo quy định của pháp luật, cá thể hóa trách nhiệm gắn với tăng cường giám sát, kiểm tra và kiểm soát quyền lực, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, quản lý thống nhất, phù hợp với thẩm quyền của Chính phủ. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của người đứng đầu bộ, cơ quan, địa phương.
+ Thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính; cấp dưới phục tùng, tuân thủ nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo, phân công của cấp trên.
+ Công khai, minh bạch, đổi mới hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước các cấp; thực hiện nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân”.
3. Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030
3.1. Mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trong đó, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2025 thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI) và đến năm 2030, thuộc thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Theo đó, mục tiêu cơ bản đến năm 2030:
(1) Phát triển Chính phủ số, nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động, 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, được cung cấp trên nhiều phương tiện truy cập khác nhau, bao gồm cả thiết bị di động; 100% hồ sơ công việc tại cấp bộ, tỉnh; 90% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 70% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước). Hình thành nền tảng dữ liệu cho các ngành kinh tế trọng điểm dựa trên dữ liệu của các cơ quan nhà nước và hạ tầng kết nối mạng Internet vạn vật (IoT), kết nối, chia sẻ rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước, giảm 30% thủ tục hành chính; mở dữ liệu cho các tổ chức, doanh nghiệp, tăng 30% dịch vụ sáng tạo dựa trên dữ liệu phục vụ người dân, doanh nghiệp; 70% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI).
(2) Phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về công nghệ thông tin (IDI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI); Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về đổi mới sáng tạo (GII).
(3) Phát triển xã hội số, thu hẹp khoảng cách số,phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang; phổ cập dịch vụ mạng di động 5G; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%; Việt Nam thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).
Để thực hiện những mục tiêu đã đề ra, Quyết định số 749/QĐ-TTg nêu rõ từng nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong tạo nền móng chuyển đổi số; phát triển Chính phủ số; phát triển kinh tế số; phát triển xã hội số. Đồng thời, chỉ ra một số ngành, lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số trước, như: chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế; giáo dục; tài chính – ngân hàng; nông nghiệp; giao thông vận tải và logistics; năng lượng; tài nguyên và môi trường; sản xuất công nghiệp. Trong đó, chú trọng tới việc triển khai các sáng kiến nhằm liên kết giữa các ngành, lĩnh vực để cung cấp một trải nghiệm mới, hoàn toàn khác, mang lại giá trị cho người dân, doanh nghiệp và xã hội.
3.2. Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030
Thứ nhất, phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030
(1) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bảo đảm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030.
(2) Tiếp tục kiện toàn tổ chức bên trong của các cơ quan, tổ chức, đơn vị theo hướng tinh gọn; rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức, đơn vị gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số.
(3) Bảo đảm hình thành tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chuyển đổi số từ trung ương đến địa phương, thống nhất đầu mối, có sự phân công rõ ràng, cụ thể, xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách về chuyển đổi số các cấp từ trung ương đến địa phương, nhất là cấp cơ sở nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả và phát huy vai trò của chuyển đổi số trong phát triển kinh tế – xã hội. Ưu tiên phân bổ nguồn lực đầu tư và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chuyển đổi số, đủ về số lượng, hài hòa về cơ cấu, phù hợp theo đặc thù lĩnh vực, vùng, miền với đầy đủ công cụ, nền tảng số phục vụ hoạt động công vụ.
(4) Bảo đảm kiện toàn các đơn vị chuyên trách về chuyển đổi số thuộc Bộ, ngành, địa phương với cơ cấu hợp lý, được sắp xếp, bố trí lại hoặc bổ sung kịp thời biên chế trên cơ sở biên chế hiện có của Bộ, ngành, địa phương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao về chuyển đổi số; phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số; phát triển kinh tế số và xã hội số.
(5) Tiếp tục danh mục vị trí việc làm cùng với khung năng lực, bản mô tả vị trí việc làm của hệ thống chính trị làm cơ sở xác định biên chế của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn, gắn với đánh giá thực chất, xếp loại chính xác công chức, viên chức.
Thứ hai, phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030
(1)Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; quy định rõ cơ chế phân cấp, uỷ quyền gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số. Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước theo hướng:
+ Gắn quyền với trách nhiệm của người được phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ và có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả, bảo đảm phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội. Trong đó, người được phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ phải chịu trách nhiệm toàn diện về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
+ Xác định rõ trách nhiệm của chủ thể phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ (Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương) về việc thực hiện nhiệm vụ đã phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ cho cấp dưới. Trong đó, cần xem xét, bảo đảm yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ thông qua việc quy định cụ thể trách nhiệm về quản lý hành chính và trách nhiệm kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ đã phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ.
(2) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật chuyên ngành để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, xác định rõ các nguyên tắc về phân cấp, phân quyền, ủy quyền tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số.
(3) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, ngành và địa phương, gắn phân cấp, phân quyền với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, ưu tiên bảo đảm các nguồn lực đẩy nhanh việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4.
(4) Hoàn thiện cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo chủ trương của Bộ Chính trị để phát triển các địa phương này trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của vùng, miền, đặc biệt là các địa phương tự bảo đảm ngân sách gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số.
(5) Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp, phân quyền. Theo đó, hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp, phân quyền; hoàn thiện các quy định về xử lý các vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định về phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số.
4. Kết luận
Có thể khẳng định, chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030 là hướng đi đúng đắn nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu nhất định trong việc tạo khung pháp lý cơ bản về thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, bất cập, nhất là trong việc kiểm soát quyền lực của cơ quan được phân cấp, phân quyền.
Thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm hoàn thiện thể chế về tổ chức bộ máy và phân cấp, phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước gắn với mục tiêu quốc gia về chuyển đổi số đến năm 2030. Trên hết, vấn đề này cần có sự tham gia giám sát thực sự của cả hệ thống chính trị và cả người dân, tăng cường sự minh bạch, trách nhiệm giải trình của cơ quan được phân cấp, phân quyền; đồng thời, phát huy năng lực, tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của quản lý nhà nước trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
3. Chính phủ (2019). Nghị định số 47/2019/NĐ-CP ngày 05/6/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 của Chính phủ quy định về cơ quan thuộc Chính phủ.
4. Chính phủ (2020). Nghị định số 101/2020/NĐ-CP ngày 28/8/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ.
5. Chính phủ (2020). Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
6. Chính phủ (2020). Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
7. Chính phủ (2020). Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 55/2012/NĐ-CP).
8. Chính phủ (2020). Nghị quyết số 04/NQ-CP ngày 10/01/2022 về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước.
9. Chính phủ (2021). Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
10. Chính phủ (2021). Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
11. Chính phủ (2022). Nghị định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18/6/2022 về quy chế làm việc của Chính phủ.
12. Chính phủ (2023). Nghị quyết số 20/NQ-CP ngày 17/02/2023 về một số nhiệm vụ, giải pháp triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
13. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
14. Quốc hội (2017). Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
15. Quốc hội (2019). Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
16. Quốc hội (2019). Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
17. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.