Tin ngân hàng ngày 22/5: Ngân hàng tích cực mua lại trái phiếu trước hạn
Tin ngân hàng ngày 20/5: Tỉ lệ nợ xấu nhiều ngân hàng vượt ngưỡng Tin ngân hàng ngày 19/5: BIDV tuyển dụng 350 nhân sự làm việc tại hội sở và các chi nhánh |
Ngân hàng tích cực mua lại trái phiếu trước hạn
Theo báo cáo mới nhất về thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) của FiinRatings, sau tháng 3 sôi động, thị trường TPDN tháng 4 đã quay trở lại trạng thái trầm lắng khi chỉ ghi nhận duy nhất một lô trái phiếu riêng lẻ trị giá 671 tỷ đồng.
Ảnh minh họa/https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/ |
Điều này dẫn đến quy mô phát hành của tháng 4 chỉ tương đương 2,5% so với tháng 3 và chỉ bằng 2,25% của cùng kỳ năm 2022.
Trong khi đó, quy mô trái phiếu mua lại trước ngày đáo hạn trong tháng 4 cũng theo chiều hướng sụt giảm khi đạt gần 11.300 tỷ đồng, giảm 41,6% so với tháng trước và giảm 10% so với cùng kỳ năm 2022. Hoạt động mua lại chủ yếu đến từ nhóm ngân hàng, chiếm 61% giá trị trái phiếu mua lại.
Đáng chú ý, giá trị trái phiếu ngân hàng được mua lại tăng 5,64 lần so với tháng trước và tăng 2,42 lần so với cùng kỳ năm 2022, đến từ các ngân hàng lớn như BIDV, VPBank, Sacombank, VIB. Hầu hết các lô TPDN (8/12) được các ngân hàng mua lại có kỳ hạn ba năm và có thời gian đáo hạn còn lại là một hoặc hai năm.
Theo báo cáo đầu tháng 4 của Chứng khoán VNDirect cho biết, trong năm 2023, ước tính giá trị đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp vào khoảng 232.600 tỷ đồng.
Trong đó quý 2/2023 sẽ có khoảng hơn 70.954 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn, tăng 127% so với quý 1. Bất động sản vẫn là nhóm chịu áp lực đáo hạn trái phiếu lớn nhất, chiếm gần 40% tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong quý này. Đứng thứ 2 là nhóm tài chính ngân hàng với tỷ lệ chiếm hơn 37% tổng giá trị đáo hạn.
Sang quý 2 sẽ có khoảng hơn 70.954 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn. Đến quý 3, VNDirect ước tính sẽ có 77.738 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn. Và quý 4/2023 là 52.321 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn.
Ngân hàng nào trả lương cao nhất hiện nay?
Techcombank, MB, Vietcombank tiếp tục nằm trong nhóm dẫn đầu về cuộc đua trả lương cao nhất hiện nay cho nhân viên.
Tính đến tháng 5/2023, các ngân hàng đều đã công bố báo cáo tài chính quý I/2023, trong đó tiết lộ thông tin được nhiều người quan tâm, đó là lương/thu nhập bình quân của cán bộ nhân viên trong ngành này.
Thực tế, đơn vị dẫn đầu lợi nhuận không đồng nghĩa sẽ trả lương cao nhất. Bảng xếp hạng lợi nhuận ngân hàng hiện dẫn đầu là Vietcombank, thế nhưng nhân viên làm việc tại Techcombank mới là quán quân trong top có thu nhập cao nhất ngành ngân hàng trong quý I/2023.
Cụ thể, theo báo cáo tài chính riêng lẻ quý I/2023 của 28 ngân hàng thương mại, chi lương và phụ cấp nhân viên hầu hết đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái dù mức tăng trưởng lợi nhuận của nhiều ngân hàng đã giảm so với cùng kỳ.
Techcombank tiếp tục nắm giữ ngôi vị quán quân về chế độ đãi ngộ cho nhân viên khi dành gần 1.600 tỷ đồng cho việc chi lương và phụ cấp cho nhân viên. Mức thu nhập bình quân (lương và phụ cấp) lên đến 46,46 triệu đồng/tháng (bằng với cùng kỳ năm 2022 nhưng tăng 3,4 triệu đồng so với mức thu nhập bình quân năm 2022).
Vị trí thứ hai thuộc về ngân hàng MB với thu nhập bình quân nhân viên là 40,20 triệu đồng/tháng. Vị trí thứ ba là Vietcombank, mức thu nhập bình quân nhân viên là 38,66 triệu đồng/tháng.
Nhân viên tại TPBank, MSB, VIB, Sacombank, VietinBank và VPBank cũng không phải tủi khi có mức thu nhập bình quân mỗi tháng từ 30-34 triệu đồng/người. VIB có mức thu nhập bình quân 32,92 triệu đồng/tháng, Saigonbank là 21 triệu đồng/tháng. VietCapitalBank sụt giảm mạnh hơn 6 triệu đồng/tháng so với cùng kỳ năm ngoái, mức thu nhập trung bình 19,140 triệu đồng/tháng.
BacA Bank, VietBank, và BaoViet Bank là những ngân hàng thuộc nhóm có thu nhập nhân viên thấp nhất, bình quân từ 15-17 triệu đồng/người/tháng.
Những con số trên là thống kê mức thu nhập bình quân từ lương và phụ cấp, còn tùy thuộc mỗi một vị trí tại ngân hàng sẽ có chế độ lương, thưởng khác nhau và thường có sự chênh lệch lớn do ngân hàng trả lương dựa trên thâm niên, mức độ hoàn thành chỉ tiêu, đặc thù giữa các bộ phận trong ngân hàng, thậm chí ngay giữa các nghiệp vụ hoạt động và hiệu quả hoạt động chung của từng chi nhánh.
Tiềm ẩn nhiều rủi ro trong kiểm soát tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro
Kiểm toán Nhà nước cho biết, năm 2022 đã kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2021 của Ngân hàng Nhà nước và 5 tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Kết quả cho thấy, năm 2021, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện nhiều giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát ở mức 1,84%, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Các ngân hàng được kiểm toán đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%.
Song, báo cáo kiểm toán chỉ rõ, với mức tăng tưởng tín dụng chung của nền kinh tế là 13,61%, tăng trưởng tín dụng đối với hầu hết các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro đều cao hơn mức tăng trưởng chung.
Lĩnh vực bất động sản 15,37%, chứng khoán 23,85%, trái phiếu doanh nghiệp 17,65%.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng nền kinh tế so với GDP ở mức cao (năm 2020 là 114,3%; năm 2021 là 113,2%). Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ này của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới, tiềm ẩn nhiều rủi ro trong việc kiểm soát dòng tiền tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro, cơ quan kiểm toán lưu ý.
Kết quả kiểm toán còn cho thấy chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể việc điều hành, kiểm soát chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng chung và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng tổ chức tín dụng; một số tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng vượt mức tối đa cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Như, Ngân hàng TMCP Bản Việt (được giao 13,48%, thực hiện 15,67%).
Cạnh đó là một số ngân hàng phân loại nợ chưa phù hợp, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chưa chính xác, còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay.
Ngân hàng Chính sách còn nhiều trường hợp cho vay vượt hạn mức, cho vay đối tượng không phù hợp với tiêu chí của chương trình... dẫn đến xác định số tiền cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ ngân sách nhà nước tăng thêm 0,97 tỷ đồng. Có 478 khách hàng còn dư nợ chương trình cho vay nhà ở xã hội nhưng chưa gửi đủ tiền tiết kiệm hàng tháng tại hệ thống ngân hàng chính sách theo quy định.
Ngân hàng Nhà nước giảm giá mua USD
Tuần qua chứng kiến diễn biến đáng chú ý trên thị trường ngoại tệ khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm 50 đồng giá mua vào USD tại Sở Giao dịch từ 23.450 đồng/USD xuống còn 23.400 đồng/USD.
Ảnh minh họa/https://kinhtexaydung.petrotimes.vn/ |
Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 12/2022, NHNN thay đổi giá chào mua USD tại Sở Giao dịch. Lần gần nhất Nhà điều hành điều chỉnh tỷ giá này diễn ra vào ngày 15/12/2022 khi giá mua USD được niêm yết trở lại sau 3 tháng bỏ trống, đồng thời được tăng lên mức 23.450 đồng/USD từ mức 22.550 đồng/USD áp dụng hồi tháng 9/2022.
NHNN giảm giá chào mua USD sau khi tỷ giá USD liên ngân hàng giảm sâu dưới giá chào mua trước đó 23.450 đồng/USD (tức các ngân hàng bán USD cho nhau với giá thấp hơn giá bán cho NHNN).
Việc hạ giá mua USD mới đây có thể khiến NHNN mua được ít ngoại tệ hơn, đồng nghĩa lượng tiền Đồng bơm đối ứng vào hệ thống sẽ có xu hướng giảm đi. Tuy nhiên, điều này cần đặt trong bối cảnh là một lượng lớn tín phiếu 91 ngày (110.700 tỷ đồng) bắt đầu đáo hạn từ tuần qua và sẽ kéo dài đến đầu tháng 6. Số tiền này sẽ góp phần duy trì thanh khoản hệ thống ở trạng thái dồi dào dù NHNN có thể giảm bơm VND qua kênh mua ngoại tệ.
Hơn nữa, việc giảm giá mua USD cũng sẽ hỗ trợ tích cực cho sức mạnh tiền đồng, giảm áp lực lên tỷ giá.
Nguồn:Tin ngân hàng ngày 22/5: Ngân hàng tích cực mua lại trái phiếu trước hạn