Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và vận dụng trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ Việt Nam hiện nay
Xây dựng các đơn vị cơ sở trong Quân đội vững mạnh về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh Chống “bệnh lười” học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh |
Các trí thức trẻ tham gia Diễn đàn tri thức trẻ Việt Nam toàn cầu năm 2020 |
1. Đặt vấn đề
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Trong mọi giai đoạn của lịch sử, đội ngũ trí thức (ĐNTT) luôn là tinh hoa, tài sản quý báu của nhân loại, đóng vai trò tiên phong, quan trọng và có sức ảnh hưởng to lớn đến vận mệnh phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. “Trí thức là một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”(1). Do đó, công tác xây dựng ĐNTT luôn là vấn đề cấp thiết.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của ĐNTT đối với sự nghiệp cách mạng, bởi lẽ sự nghiệp cách mạng càng phát triển thì càng cần có đông đảo trí thức, vì đây là đối tượng có sự nhạy bén với cái mới, có tư duy độc lập, sáng tạo.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đang được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đẩy mạnh toàn diện vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; vì vậy, ĐNTT trẻ với sự năng động, sáng tạo, được thừa hưởng những điều kiện lý tưởng để phát triển cần phải đóng vai trò nòng cốt cho nhiệm vụ to lớn, cao cả này. Do đó, xây dựng ĐNTT trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong tình hình mới.
2. Quan điểm Hồ Chí Minh về đội ngũ trí thức và trí thức trẻ
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước cấp tiến nên Người sớm được tiếp cận và thẩm thấu tri thức của cả phương Đông và phương Tây; trong quá trình hoạt động cách mạng, với tư duy độc lập tự chủ, Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, trở thành một nhà trí thức lỗi lạc. Người giải thích, trí thức hay những người lao động trí óc là: “thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy, v.v..”(2). Như vậy, trí thức được xác định thông qua nghề nghiệp, những người làm việc chuyên nghiệp trong các lĩnh vực sử dụng tri thức. Hồ Chí Minh nhận thấy rõ vai trò và sức mạnh của ĐNTT, đối với sự nghiệp cách mạng, vì đây là những người có tư duy nhạy bén trước sự thay đổi liên tục của thực tiễn và ít chịu ảnh hưởng bởi những định kiến của xã hội cũ.
Về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức
Quan điểm về trí thức của Hồ Chí Minh được hình thành ngay từ sớm. Người sớm nhận thức được tầm quan trọng của ĐNTT; đề cao vai trò, trân trọng và động viên họ đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(3). Vì vậy, sau khi Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, với vai trò là người lãnh đạo đất nước, Người rất quan tâm đến trí thức, trọng dụng, quy tụ ĐNTT cùng tham gia xây dựng chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp. Trân trọng tài năng, tin tưởng và đề cao vai trò của trí thức là yếu tố quan trọng hàng đầu để thu hút trí thức tham gia cách mạng. “Lòng tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đội ngũ trí thức nước nhà là chất keo gắn kết để đội ngũ này yên tâm, tự nguyện đóng góp, cống hiến tài năng và sức lực vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc”(4).
Hồ Chí Minh khẳng định, trí thức là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng, Người cho rằng: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức… Nhưng trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân… Trong mấy năm kháng chiến, một bộ phận lớn trí thức Việt Nam đã chịu khó chịu khổ đi với kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến…”(5), “trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, vai trò của ĐNTT đối với sự nghiệp cách mạng, bởi lẽ sự nghiệp cách mạng càng phát triển thì càng cần có đông đảo trí thức, vì đây là đối tượng có sự nhạy bén với cái mới, có tư duy độc lập, sáng tạo. |
Tháng 7-1947, trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài, Người nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam đã gánh một phần quan trọng trong cuộc kháng chiến cứu quốc… Hiện nay hầu hết nhân viên trong Chính phủ trung ương là người trí thức”(7).
Đặc biệt, ĐNTT trẻ càng được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, vì đây là lực lượng kế cận của sự nghiệp cách mạng, cần được bồi dưỡng, rèn luyện để vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người cho rằng: “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”(8).
Theo Người, ĐNTT trẻ với tài năng, học thức sẽ gánh vác trên vai sứ mệnh cao cả, quyết định tương lai, sự hưng thịnh của đất nước, dân tộc và chính bản thân những trí thức trẻ đang ở vào độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, luôn mang trong mình lý tưởng, hoài bão và khát vọng cống hiến cho đất nước, xã hội, bất kỳ ai trong giai đoạn này đều tràn đầy nhiệt huyết, không ngại khó khăn, gian khổ. Trí thức trẻ có vai trò hết sức quan trọng, thể hiện trong mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mang trọng trách tiếp nối truyền thống của các thế hệ đi trước, xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc.
Về xây dựng và đào tạo đội ngũ trí thức
Trí thức là đội ngũ quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Họ có lợi thế là những người hiểu biết, tư duy nhạy bén và tinh thần nhiệt huyết, nhưng muốn phát huy tối đa sức mạnh của họ để phục vụ cho cách mạng thì cần phải có chiến lược xây dựng, đào tạo một cách toàn diện. Hồ Chí Minh đã chỉ ra trọng trách của ĐNTT là: “Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà, mà anh em văn hóa và trí thức phải làm cũng như là những chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến để tranh lại quyền thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”(9). Người còn nhấn mạnh, phải xây dựng và rèn luyện ĐNTT để họ nhận thức rõ trách nhiệm, luôn sẵn sàng gương mẫu, đi đầu, dùng tài năng và sức lực của mình để tuyên truyền, phát động phong trào thi đua, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước: “Các bạn là bậc trí thức. Các bạn có cái trách nhiệm nặng nề và vẻ vang, là làm gương cho dân trong mọi việc. Dân ta đã đấu tranh một cách rất dũng cảm. Lẽ tất nhiên giới trí thức phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho nhân dân”(10).
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ĐNTTcó năng lực vận dụng tri thức chuyên môn vào thực tế. Người viết: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”(11).
Tri thức được đưa vào thực tế là công cụ tư liệu lao động trực tiếp. Lao động với tư liệu lao động là tri thức trở thành một tiêu chí quan trọng để phân biệt lao động trí thức với các loại lao động khác. Trong việc đào tạo ĐNTT, Hồ Chí Minh chủ trương “Đào tạo trí thức mới. Cải tạo trí thức cũ. Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa”(12), tức là trí thức phải gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến, tham gia vào phong trào đấu tranh và học tập những ưu điểm của công nhân. Hơn nữa, ĐNTTphải không ngừng học tập, nắm vững khoa học - kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học vào thực tiễn công tác nhằm nâng cao năng suất, tiết kiệm sức lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh chủ trương, xây dựng ĐNTT có đầy đủ cả “đức” và “tài”. Tiêu chí đào tạo ĐNTTtrong chế độ mới được Người xác định rõ, là phải toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Với ĐNTT, tài đức phải song hành với nhau, trong đó đức là gốc, bởi “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”(13). Dù có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết uyên bác mà không có đạo đức thì không những không giúp ích mà thậm chí còn có thể gây hại cho đất nước, xã hội. Do đó, đào tạo ĐNTT phải chú trọng đồng thời cả nâng cao năng lực chuyên môn, giáo dục nghề nghiệp và rèn luyện phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng. Vì vậy, Người cũng đặc biệt coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và phong cách làm việc cho ĐNTT vì Người mong muốn, ĐNTT sẽ trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông, góp phần xứng đáng vẻ vang vào công cuộc xây dựng CNXH.
Bên cạnh những ưu điểm chung, Hồ Chí Minh cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, thiếu sót mà ĐNTTtrẻ thường mắc phải, như: thiếu kinh nghiệm thực tiễn, kiêu căng, tự cao tự đại, khinh lao động chân tay, không kiên quyết, ngại khó nhọc… Từ đó, Người chỉ rõ: “những người trí thức đó cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình. Phải khiêm tốn. Chớ kiêu ngạo. Phải ra sức làm các việc thực tế”(14). Cho nên, trí thức có trình độ chuyên môn cũng luôn phải gần gũi với nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, tránh bệnh hình thức, giáo điều, lý thuyết suông.
Biện pháp xây dựng đội ngũ trí thức
Coi trọng, tin tưởng và sử dụng trí thức là quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cho rằng, sử dụng trí thức phải thực sự xuất phát từ lòng tin tưởng và kính trọng thì mới phát huy tối đa tài năng của họ, chứ không phải mang lại cho họ lợi ích hay công danh cá nhân. Với Người, phải coi trọng việc sử dụng trí thức vào từng công việc cụ thể, phải có chính sách chiêu người hiền tài ra giúp đất nước: "Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều"(15). Khéo lựa chọn, khéo dùng người tài phải dựa trên cơ sở những tiêu chí nhất định, phải biết đặt người tài vào đúng chỗ, đúng lúc để họ có môi trường phát huy tài năng. Đồng thời, thực sự tin tưởng họ. Lòng tin là động lực to lớn thúc đẩy trí thức cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp của Đảng và cách mạng.
Để xây dựng ĐNTT toàn diện, công tác giáo dục đào tạo phải được đặt lên hàng đầu. Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”(16). Trong Di chúc, Người căn dặn: “Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(17).
Giáo dục, đào tạo trí thức phải chú trọng nâng cao phương pháp giáo dục, đào tạo nghề nghiệp đi kèm với những chính sách tạo điều kiện phát triển tài năng cho họ, đặc biệt cần tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã gửi nhiều học sinh, sinh viên sang đào tạo về chuyên môn và khoa học ở Trung Quốc và Liên Xô. Năm 1945, Người đã gửi thư cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ đề nghị cho 50 thanh niên Việt Nam ưu tú nhất sang Mỹ để trao đổi, giao lưu văn hóa(18).
ĐNTT phục vụ cho sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ giải phóng dân tộc luôn học tập và đi theo con đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một số trí thức đó đã trở thành những danh nhân, anh hùng lao động, những người đứng đầu các cơ sở đào tạo, các trung tâm nghiên cứu khoa học. Đó là những người thầy, nhà khoa học tiêu biểu như: GS Trần Đại Nghĩa, GS Trần Hữu Tước, GS Hoàng Xuân Hãn, GS Tạ Quang Bửu, GS Đặng Văn Ngữ, GS Trần Hữu Tước, GS Tôn Thất Tùng, GS Vũ Khiêu, kỹ sư Phạm Quang Lễ, kỹ sư Võ Quý Huân,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng ĐNTT là sự kế thừa truyền thống của dân tộc, tiếp thu và phát triển sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức. Tư tưởng của Người không chỉ góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc mà để lại nhiều bài học quý báu cho sự nghiệp xây dựng ĐNTTngày nay, góp phần thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2. Đảng ta xây dựng đội ngũ trí thức hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thế giới đang ngày càng phát triển thì vai trò, vị trí của ĐNTT nói chung và trí thức trẻ nói riêng ở mỗi quốc gia, dân tộc càng được khẳng định rõ ràng hơn. Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(19). Thế và lực của nước ta ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. ĐNTT, trong đó có trí thức trẻ ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng bồi dưỡng và khẳng định vai trò quan trọng đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,… Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước”(20).
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) cũng khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến”(21).
Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh việc xây dựng ĐNTTvà thu hút nhân tài: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(22).
Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương “về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp "nguyên khí quốc gia" và phát triển bền vững; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội”(23); đồng thời, xác định mục tiêu xây dựng và phát triển ĐNTT Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
Xác định người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” quy định, cần “hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước”.
Ngày 19-5-2015, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 45-CT/TW “về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới” khẳng định quan điểm nhất quán đối với việc tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp sức lực, trí tuệ xây dựng đất nước. Qua đó cho thấy, Đảng ta rất chú trọng và quan tâm công tác xây dựng ĐNTT ngày càng lớn mạnh, trở thành lực lượng cốt lõi trong công cuộc hiện thực hóa mục tiêu tiến lên CNXH.
ĐNTT trẻ ở nước ta hiện nay đang ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng, có nhiều điều kiện phát triển toàn diện cả thể lực lẫn trí tuệ. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đại đa số trí thức trẻ đều có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và sự nghiệp xây dựng CNXH; được tạo điều kiện trau dồi và học tập trong những môi trường thuận lợi để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng làm việc; có đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh; sống có trách nhiệm, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão, khát vọng được cống hiến cho cộng đồng, xã hội,… Thực tế cho thấy, ĐNTT trẻ Việt Nam đang chứng tỏ xứng đáng là những chủ nhân tương lai của nước nhà, kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Bên cạnh những ưu điểm, ĐNTT trẻ hiện nay còn bộc lộ một số hạn chế thể hiện trên thực tế là: số lượng và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu tình hình mới, cơ cấu trí thức không đồng đều, chỉ tập trung vào một số lĩnh vực và ở các thành phố lớn; một số trí thức chưa có tư duy đổi mới, sáng tạo, cơ chế, chính sách đãi ngộ chưa thực sự thu hút trí thức ở nước ngoài. Ngoài ra, trước những tác động tiêu cực của tình hình mặt trái của nền kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ trí thức có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chạy theo lối sống thực dụng, đề cao lợi ích vật chất lên trên hết, lười lao động, thờ ơ, vô trách nhiệm trước các vấn đề xã hội, coi nhẹ những giá trị truyền thống tốt đẹp và giá trị nhân văn, ý thức chính trị giảm sút,… Do còn hạn chế trong nhận thức và những yếu tố tiêu cực tác động, một bộ phận trí thức trẻ trở thành đối tượng các thế lực thù địch hướng tới, lợi dụng, lôi kéo bằng các thủ đoạn tinh vi nhằm gây mất niềm tin vào chế độ, kích động tham gia chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Trước những diễn biến phức tạp của bối cảnh mới, việc vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh để xây dựng và bồi dưỡng ĐNTTtrẻ là yêu cầu cấp thiết và mang giá trị sâu sắc. Để quán triệt quan điểm của Người vào công tác xây dựng ĐNTTtrẻ nhằm phát huy vai trò của đội ngũ này trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ĐNTT. Các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và toàn xã hội cần phải khách quan nhận thức về vị trí, vai trò của trí thức trẻ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, tạo động lực để trí thức trẻ đoàn kết, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm, cống hiến hết mình cho đất nước, xã hội, góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xác định rõ, xây dựng và phát triển ĐNTTlà nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của các tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Trọng dụng và tôn vinh những trí thức trẻ có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý tốt, không có sự phân biệt giữa trí thức trong Đảng và ngoài Đảng, giữa trí thức làm việc trong cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân hoặc nước ngoài, giữa trí thức trong nước với ngoài nước.
Các cấp ủy và chính quyền thường xuyên thực hiện những cách thức, cơ chế để quản lý và sử dụng hiệu quả ĐNTT, tránh đánh giá chỉ dựa trên bằng cấp mà cần phải xét đến đạo đức, năng lực làm việc thực tế và khả năng sử dụng năng lực trong công việc.
Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức cần thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến của trí thức trẻ về những vấn đề của cơ quan, tổ chức, địa phương, đơn vị cũng như các vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của địa phương, đất nước.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh, đồng thời đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, tạo mọi điều kiện thuận lợi để trí thức trẻ phát huy năng lực, trí tuệ và rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng. Huy động các nguồn lực, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển ĐNTT trẻ. Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách đột phá và đầu tư nguồn lực để phát triển cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu trọng điểm ngang tầm với các nước tiên tiến, có đủ năng lực, điều kiện để giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo ĐNTT trẻ. Khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ sở nghiên cứu trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở tiên tiến trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ, năng lực hoạt động.
Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích, động viên, hỗ trợ ĐNTT trẻ học tập, nghiên cứu tại các nước phát triển để nâng cao sự hiểu biết, học hỏi kinh nghiệm quốc tế về phục vụ cho quá trình phát triển nước nhà. Xây dựng cơ chế đặc thù về đầu tư, đãi ngộ đối với trí thức trẻ theo nhiệm vụ và sản phẩm sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng.
Cần có cơ chế trọng dụng và đãi ngộ trí thức tài năng, nhà khoa học trẻ; xóa bỏ tư duy coi trọng bằng cấp, thâm niên công tác. Đây chính là những yếu tố quan trọng để ĐNTT trẻ yên tâm cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng CNXH; đồng thời đứng vững, không dao động và kiên quyết đấu tranh trước các thủ đoạn lôi kéo, lợi dụng và trí thức trẻ của các thế lực thù địch.
Ba là, tăng cường tính chủ động, tích cực, tinh thần và sự cống hiến của ĐNTT trẻ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, trí thức trẻ cần không ngừng tích lũy tri thức, kinh nghiệm, đổi mới phương pháp, tìm kiếm, thích nghi với môi trường mới không chỉ trong lĩnh vực chuyên môn nghề nghiệp, mà ở cả những lĩnh vực tri thức khác để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Cùng với không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trí thức trẻ cần phải trau dồi phẩm chất đạo đức, đó là tinh thần thấu cảm, chia sẻ với khó khăn, vất vả của người dân, biết hy sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của cộng đồng. Nhờ vậy, tài trí của người trí thức trẻ mới thực sự được phát huy và góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng CNXH, giúp ích cho sự phát triển tiến bộ của xã hội.
Bốn là, mỗi trí thức trẻ cần nhận thức rõ ý thức trách nhiệm và sứ mệnh của mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “trí thức ta nên tự động đi bước trước tìm đến công nông, và tôi chắc rằng công nông sẽ nhiệt liệt hoan nghênh trí thức”(24). Trí thức trẻ dù làm việc ở đâu, trong lĩnh vực nào cũng luôn phải không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ năng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, thấm nhuần tinh thần yêu nước, ý thức rõ trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất nước, sự tồn vong của chế độ. Do đó, trí thức trẻ phải luôn chủ động và trở thành lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
3.Kết luận
ĐNTT trẻ đang ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, để xây dựng đội ngũ này vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng ĐNTT trẻ có ý nghĩa cấp thiết. Bởi, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để trí thức học tập và noi theo. Xây dựng ĐNTTtrẻ theo tư tưởng của Người, không chỉ đào tạo thế hệ trí thức trẻ tài đức vẹn toàn mà còn góp phần quan trọng đưa đội ngũ này trở thành lực lượng đóng vai trò đắc lực, tiên phong trong công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh.
_________________
Ngày nhận bài: 8-12-2023; Ngày bình duyệt: 24-02-2024; Ngày duyệt đăng: 20-3-2024.
(1) Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.360.
(2), (12), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.71, 72-73, 71.
(3), (7), (9), (10), (11), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.184, 200, 157, 472, 275, 275.
(4) Phạm Ngọc Anh (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới - giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.438.
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.53-54, 59.
(8), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.194, 114.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.400.
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.616-617.
(18) Nguyễn Duy Quỳnh: Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang/-/2018/823769/view_content, ngày truy cập 29-12-2023.
(19), (22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.25, 167.
(20) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, ,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.90-91.
(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.161-162.
(23) Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới
(24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.377.
Nguồn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và vận dụng trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ Việt Nam hiện nay