Vận dụng kinh nghiệm cổ truyền và tư duy hiện đại trong quản trị phòng, chống bão lũ ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng tinh thần đoàn kết của giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay – Nhìn từ góc độ kinh tế Giải pháp xây dựng văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay |
Từ khóa: Kinh nghiệm cổ truyền; vận dụng; tư duy hiện đại; quản trị; phòng, chống bão lũ; Việt Nam.
1. Tổng quan các thảm họa bão lũ trong lịch sử phát triển của Việt Nam
Việt nam nằm trong khu vực bán đảo Đông Dương nhiệt đới ẩm, gió mùa, có khí hậu rừng mưa nhiệt đới, một bên là Biển Đông, phía Bắc là đại lục địa Viễn Đông với khí hậu khô, ôn đới. Biển Đông là một trung tâm bão nhiệt đới với hàng vạn năm đã tác động đến khí hậu, thời tiết, đời sống và sinh tồn các dân tộc Việt Nam trên dải đất hình chữ S. Do đó, Nhân dân đã tích lũy kinh nghiệm thành ca dao, tục ngữ, thành ngữ để truyền khẩu nhiều đời, để phòng, chống bão lũ. Từ thời xa xưa, quản trị đê điều do Hà Đê Chánh Sứ (tương tự chức Bộ Trưởng bây giờ) của Triều đình do Vua bổ nhiệm. Cấp thừa hành thấp nhất là Lý trưởng, còn Chánh tổng có nhiệm vụ bảo trì, báo cáo lên cấp trên những vấn đê điều trong phạm vi của địa phương.
Điểm qua các trận mưa, bão, lũ trong thế Kỷ XX và đầu thế kỷ XXI để thấy các quy luật thiên tai và thiệt hại:
Ngày 9/8/1913, mực nước tại Hà Nội đạt 11,35 m, làm vỡ đê sông Hồng ở đoạn đê thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên 2 đoạn phía tả ngạn tại Nhật Chiên, Cẩm Viên và Hải Bối, Yên Hoa thuộc Phúc Yên; vỡ đê Phu Chu thuộc tỉnh Thái Bình. Đến ngày 14/8, khi lũ Hà Nội xuống mức 10,69 m vẫn vỡ đê Lương Cổ, tả ngạn sông Đáy thuộc tỉnh Hà Nam; ngày 17/8, vỡ đê Phương Độ, Sơn Tây phía hữungạn sông Hồng khi mực nước Hà Nội là 11,11 m; ngày 18/8, vỡ đê Nghĩa Lộ phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam khi mực nước Hà Nội 11,3 m; ngày 19/8, vỡ đê Quang Thừa, Lỗ Xá sông Đáy phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam khi mực nước Hà Nội 10.99 m. Nước lũ làm ngập gần hết tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), một phần Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và Bắc Ninh.
Từ ngày 11 đến 20/8/1915: Đê bị vỡ liên tiếp 42 chỗ với tổng chiều dài 4,180 m. Những nơi vỡ chính như: Xâm Dương, Xâm Thị – đê hữu sông Hồng thuộc tỉnh Hà Đông. Các chỗ vỡ khác như: Lục Cảnh, Hoàng Xá, Trung Hà (tỉnh Phúc Yên); Phi Liệt, Thủy Mạo (tỉnh Bắc Ninh). Đê tả sông Hồng, vỡ ở: Mễ Chân (tỉnh Hưng Yên); Gia Quất, Gia Thượng, Phú Tòng, Yên Viên, Đông Thụ, Danh Nam (tỉnh Bắc Ninh) và một số chỗ khác trên sông Phó Đáy, Đuống và sông Đáy.
Ngày 29/7/1926, khi mực nước Hà Nội lên tới 11,93m thì vỡ đê tả ngạn sông Hồng vùng Gia Quất, Ái Mộ, Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh; vỡ đê hữu ngạn sông Luộc tại Hạ Lao, Văn Quán tỉnh Thái Bình; vỡ đê tả ngạn sông Luộc tại Bô Dương, tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt do vỡ đê khoảng 100.000 ha. Hà Nội lúc này chưa đắp đê cao như hiện nay nên lũ sông Hồng uy hiếp trực tiếp Hà Thành (Thành phố Hà Nội). Kể từ đây đê được nâng cao lên 14 m. Nhiều tuyến đê được nắn lại, hai sườn đê được đắp không đối xứng bảo đảm chống chịu nước lũ tốt hơn.
Một trận lũ lớn vào tháng 8/1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312.000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người;
Năm 1971, ảnh hưởng những trận mưa to liên tục và một cơn bão lớn, nước
trên sông Thao, sông Lô và sông Đà đã hợp lại gây nên cơn lũ lịch sử của đồng bằng sông Hồng. Mực nước sông Hồng ngày 20/8 lên đến 14,13 m ở Hà Nội (cao hơn mực nước báo động cấp III đến 2,63 m). Mực nước Sông Hồng đo được 18,17 m ở Việt Trì (cao hơn 2,32 m mức báo động cấp III) và 16,29 m ở Sơn Tây (1,89 m cao hơn mức báo động cấp III). Đồng thời mực nước ở các Sông Cầu, Sông Lô, Sông Thái Bình lên cao hơn bao giờ hết. Mưa lũ năm 1971 đã gây vỡ đê ở ba địa điểm, làm chết 100.000 nguời, úng ngập 250.000 ha và hơn 2,7 triệu người bị thiệt hại, ảnh hưởng.
Ngày 24/7/1996, cơn bão Frankie với sức gió 100 km/giờ, gây cho hơn 177.000 ha bị úng ngập, làm 100 người bị thiệt mạng, và 194.000 căn nhà bị hư hại nhưng không gây vỡ đê.
Trận mưa lớn nhất trong 35 năm đổ xuống ngày 31/10/2008 với hơn 600 mm đã biến Hà Nội và nhiều vùng khác trong khu vực đồng bằng Sông Hồng thành biển nước. Lúc đó, Thành phố Hà Nội có hệ thống thoát nước chỉ chịu đựng được lượng mưa tối đa 86 mm để không bị ngập lụt. Mực nước lúc 16 giờ ngày 4/11/2008 trên sông Thao tại tỉnh Yên Bái là 31,94 m (dưới mức báo động III là 0,06m); trên sông Lô tại Tuyên Quang là 25,77 m (dưới báo động III là 0,23 m); trên sông Cầu tại Đáp Cầu là 5,93 m, (trên báo động III là 0,13 m); hạ lưu sông Hồng tại Hà Nội là 9,1 m (dưới báo động I là 0,4 m); sông Thái Bình tại Phả Lại là 4.76 m (trên báo động II là 0.26 m); sông Thương tại Phủ Lạng Thương là 5,34 m (dưới báo động III là 0,46 m). Tại Hà Đông, chiều 4/11/2008, nước sông Nhuệ tràn qua mặt đê, mực nước lên tới 6,17 m. Hàng loạt các hồ chứa nước của Hà Nội và một số tỉnh lân cận bị quá tải. Tại Hồ Miễu, hồ Đồng Đò, hồ Kèo Cà, hồ Bàn Tiện, hồ Đền Sóc (huyện Chương Mỹ), mực nước lên cao vào chiều tối và tràn bờ. Nhiều hồ khác lên mức tràn xả lũ là hồ Cầu Bãi, hồ Đồng Đò, hồ Đồng Quan, hồ Cầu Dọc. Tuyến đê sông Hồng có 13 vị trí hư hỏng tại các huyện Mê Linh, Đan Phượng, Từ Liêm, Đông Anh, Long Biên, Sóc Sơn. Tuyến đê tả Bùi, tả Tích đã tràn hầu hết tuyến. Tuyến sông Nhuệ và Duy Tiên (Hà Nam) có tổng cộng 6.000 m đê bị tràn. Điểm Châu Can, Bạch Hạ, Đại Xuyên bị sụt. Tại Ninh Bình đê trên sông Hoàng Long bị vỡ, hàng ngàn nhà ở Nho Quan bị ngập lụt. Tổng số người chết ở Miền Bắc là 92 người, riêng Hà Nội 22 người, thiệt hại kinh tế lên đến gần 5.000 tỷ đồng. Mưa lũ kéo dài cũng khiến cho khoảng 169 km đê nội đồng, kênh mương hư hỏng; hơn 266.000 ha diện tích hoa màu và thủy sản bị ngập úng; hàng trăm nghìn nhà cửa bị sập đổ và hư hại.
2. Các kinh nghiệm dân gian phòng chống bão lũ tại Viêt Nam
Khác với thời cổ thiếu nhiều công cụ quan trắc, đánh giá và hành xử. Ngày nay bằng nhiều công cụ và phương tiện quan trắc hiện đại tiếp cận từ xa, xuyên qua không gian để đánh giá và chủ động phòng ngừa, đối phó và khắc phục hậu quả của thiên tai, bão lũ. Tuy nhiên, việc nhận diện và hiểu biết kinh nghiệm dân gian phòng, chống bão lũ của cha ông ta và vận dụng các kinh nghiệm cổ truyền vào tư duy và hành động hiện đại để phòng chống thiên tai bão lũ sẽ giảm rất nhiều thiệt hại về kinh tế và sinh mạng cho đất nước hiện nay. Các kinh nghiệm của cha ông trong phòng, chống bão lụt, thiên tai được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, nhận thức sâu sắc về mưa bão, lũ lụt là thiên tai nguy hại nhất. Ảnh hưởng của bão lũ gây thiệt hại hàng đầu về kinh tế và sinh mạng, được đúc rút trong câu thành ngữ tứ hại (4 cái hại) là “thủy hỏa đạo tặc”, trong đó, thiên tai lũ lụt do nước tạo thành được xếp hàng đầu. Cho tới ngày nay câu này vẫn đúng. Chỉ một trận bão Yagi gây mưa lớn ngày 7/9/2024 vừa qua đã gây thiệt hại sinh mạng 344 người chết và mất tích, trong đó số chết và mất tích do sạt lở đất, lũ quét làm 264 người; thiệt hại kinh tế trên 81.500 tỷ đồng.
Hai là, xác định thời gian để củng cố đê điều. Cha ông ta xác định từ tháng Mười đến tháng Ba (âm lịch) hằng năm (khoảng 5 tháng) là các tháng trong năm thời tiết ổn định không có bão lũ lớn, chỉ có mưa trái mùa. Đây là quãng thời gian tốt nhất để gia cố đê điều, xây dựng các công trình phòng thủ,xây dựng nhà cửa, công trình giao thông, cung điện đền đài, đi biển, đi buôn bán xa, tổ chức sự kiện lớn là từ tháng Mười đến tháng Ba (âm lịch) năm sau. Những kinh nghiệm này được đúc kết trong thành ngữ sau:
“Bao giờ cho hết tháng Mười
Thì con ra lộng vào khơi mặc lòng”;
“Tháng Ba bà già đi biển”;
“Tháng Mười cho đến tháng Ba
Dúi đào hang ở, làm nhà ta theo”.
Ba là, làm công trình trị thủy và đào đắp đê điều phải làm từ hạ nguồn hay cửa sông về phía đầu nguồn. Kinh nghiệm làm công trình tiêu thoát nước cũng phải thi công từ hạ nguồn vào nội đô, điều này thể hiện qua thành ngữ sau:
“Tắm tưới thì tưới từ cao
Đắp đê khơi lạch biển vào dọc sông”
Thực tiễn cho thấy, có vài dự án tiêu thoát nước đô thị của tỉnh, thành khi thi công đặt cống trong nội đô trước đến khi xảy ra mưa bão úng ngập thì công trình còn dang dở trong nội đô trở thành hạ tầng cản trở giao thông khiến có người và xe sa xuống hố do nước ngập không nhìn thấy cống…; không phát huy được ngay hiệu quả dự án mà còn để lại hậu quả nghiêm trọng. Nếu được thi công từ hồ chứa nước vào nội đô thì sẽ không xảy ra ngập úng, sẽ an toàn cho giao thông và không gây tai nạn cho con người.
Bốn là, chủ động phòng chống thiên tai mưa bão lũ từ xa từ xa, chuẩn bị mọi nguồn lực tại chỗ là là biện phàp chủ động tốt nhất. Điều này thể hiện qua thành ngữ sau:
“ Nước xa không cứu được lửa gần!”
Sau này Ủy Ban phòng, chống thiên tai quốc gia và Bộ Quốc phòng tổng kết thành phương châmphòng chống thiên tai với “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ) và “3 sẵn sàng” (sẵn sàng phòng ngừa chủ động; sẵn sàng ứng phó kịp thời; sẵn sàng khắc phục khẩn trương, hiệu quả).
Năm là, truyền thông, huy động sức mạnh toàn dân vào phòng chống thiên tai mưa bão, lũ lụt.Thời phong kiến các công cụ truyền tin như mõ, thanh la, tù và, chiêng trống được mõ làng và tuần đinh sử dụng để truyền thông điệp của nhà Vua hay Tri Phủ huyện (tổng), huy động toàn dân phòng,chống bão lũ. Cách quãng trên đê các làng có dựng các “Điếm” hay “Chòi” canh đê chuyên lo việc hộ đê, điều này thể hiện qua thành ngữ sau:
“Lũ lụt thì ngập cả làng
Giàu nghèo to bé bàng hoàng như nhau
Nên chi chiêng trống gõ gào
Cả làng góp sức đồng bào hộ đê!”
Quá trình nghiên cứu cho thấy, trước Công nguyên, khi chưa có đê Quốc gia, các làng cổ ở Đồng bằng Bắc bộ đã dùng sức dân làng vượt thổ, đắp đê làng, tạo thành hào dẫn nước cho trồng lúa và trên đê trồng tre để lấy vật liệu trong sản xuất và đời sống. Đó là công trình đê ngăn lũ kết hợp công năng thành lũy bao bọc làng, chống cá sấu, thú dữ, chống giặc cỏ cướp bóc ở đầm lầy. Ngày nay, chúng ta còn thấy dấu tích đê làng cổ có các lũy tre bao quanh làng có gờ cao hơn cơ đất trong làng. Mô hình thành Cổ Loa hay thành Đại La chính là đúc kết kinh nghiệm đê làng thời sơ sử. Đến Thế kỷ X, Vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long sau sự kiện biển lùi để lại đồng bằng sông Hồng màu mỡ và trù phú. Dân số tăng nhanh từ vài chục vạn lên hàng triệu người. Sản xuất nông nghiệp phát triển và dôi dư lương thực. Nhà Lý huy động nhân lực dôi dư, nông nhàn ở các làng đi đắp đê quốc gia là đê sông Hồng. Đoạn đê sông Hồng đầu tiên được đắp chính là đê Cơ Xá, nay gần đầu đường Thanh niên thuộc Yên Phụ, quận Ba Đình (Xá là từ Hán Việt chỉ nơi ở như ký túc Xá, học Xá; Cơ là Quân Cơ tức nơi đây là nơi cư trú của đội vệ binh quân Cơ bảo vệ Nhà Vua. Nếu đội vệ binh mà mất an nguy do lũ lụt thì rất nguy hiểm cho Hoàng Gia trong Hoàng thành Thăng Long). Sự kiện cho thấy nhà vua coi trọng phòng, chống bão lũ như thế nào. Từ triều đại Vua Lý (từ thế kỷ X) đến Triều Nguyễn đầu thế kỷ XX,các nhà nước phong kiến rất chú ý tu bổ đê điều, xây dựng luật lệ, quy tắc, quy phạm kỹ thuật phòng,chống và cứu hộ bão lũ, đê điều để an dân vượng quốc. Các hệ thống đê sông Hồng, sông Thái Bình vừa đắp đê vượt thổ, vừa dẫn thủy nhập điền, ròng rã 10 thế kỷ đào đắp thủ công chinh phục đầm lầy Bắc Bộ và Trung Bộ với hàng tỷ mét khối đất đào đắp, quy mô không kém các công trình Kim Tự tháp ở Ai Cập.
Sáu là, lưu truyền vượt thổ đắp đê, tạo khu dân cư có thổ đất cao để tránh lũ. Điều này được khẳng định tại huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam là rốn nước chiêm trũng phía Nam của đồng Bằng Bắc Bộ xưa, cũng như huyện Khoái Châu là rốn nước của tỉnh Hưng Yên, phía Bắc sông Hồng. Nơi đây những năm trước chỉ canh tác được một vụ. Trong hàng thế kỷ để cư trú được nơi rốn lũ, người dân Bình Lục tạo ra một công nghệ đào đắp “có một không hai” nổi tiếng, tạm gọi là “Công nghệ vượt thổ của thợ đấu Bình Lục”, là dùng một cái mai cán dài đào đất đầm lầy dưới đáy nước đưa lên thuyền nan rồi chuyển đến chỗ đổ. Cách này giảm rất nhiều chi phí năng lượng và nhân công.
Nhờ tinh thần cần cù lao động, người thợ đấu Bình Lục đã tạo nên đê Quai Mễ nổi tiếng, các bờ vùng, bờ thửa, đường giao thông kết nối các làng và cơ đất cao để lập làng trên đầm lầy chỉ trồng lúa một vụ. Mùa lũ thì đánh bắt cá và mò cua bắt ốc. Ngày nay chương trình nông thôn mới đã cơ bản tiêu úng nhiều tầng, ở các huyện rốn nước trũng đã có thể canh tác hai vụ.
3. Vận dụng kinh nghiệm cổ truyền để quản trị phòng chống bão lũ ở Việt Nam hiện nay
3.1. Thiết kế và quy hoạch và xây dựng các cụm dân cư vượt lũ và đê bao không bị giới hạn bởi địa giới hành chính hiện nay.
Các cụm dân cư vượt lũ không nên theo đơn vị hành chính mà tuân theo quy luật địa hình và dòng chảy thoát lũ để thiết kế và xây dựng. Các cụm này đủ lớn có sức chứa quy mô hàng vạn dân và gia súc, gia cầm; có thể sơ tán từ vùng trũng thấp xung quanh khi bão lũ xảy ra. Làm được điều này cần hai giải pháp:
Thứ nhất, tạo đê bao xung quanh vùng lũ bảo vệ khu dân cư phía trong. Điều này đã được làmnhư một số địa phương đồng bằng Sông Cửu Long. Các đê này xây dựng các cửa khẩu giao thông thủy bộ, mùa bão lũ thì phong tỏa cửa khẩu để cô lập với úng ngập xung quanh, còn lại sẽ mở cửa để giao thông dòng chảy và vận hành hoạt động của dân cư.
Thứ hai, cần vượt thổ bằng công nghệ cơ giới hiện đại, năng suất cao cho các vùng rốn lũ. Từ kinh nghiệm cổ truyền dân tộc và các nghiên cứu kỹ thuật hiện đại cho thấy, ngày nay có thể vượt thổ,tôn cao nền đất các vùng rốn lũ bằng công nghệ cơ giới hóa tiên tiến, chi phí thấp, thành các điểm quần cư lâu dài, ổn định không bị úng ngập. Đề xuất của nhóm tác giả tập trung vào các tỉnh miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Công nghệ vượt thổ này có đặc điểm:
– Đối với nền cát thì dùng máy cuốc (máy xáng đào…) và bơm phun xa hoặc ống bơm hút đẩy;
– Đối với nền đất sét hoặc sét pha cát thì dùng máy cuốc và ống bơm hút đẩy để đắp cao nền.
Trên cơ sở đó, thiết kế hạ tầng kinh tế xã hội thích ứng với thiên tai trên cơ đất đã vượt thổ, tạo thành các thị trấn, thị tứ quần cư phát triển bền vững.
Đối với địa bàn Miền trung, đề xuất vượt thổ xây dựng các cụm dân cư các vùng rốn lũ như sau:
Xét từ Nam sông Mã đến Bắc sông Đồng Nai đồng bằng duyên Hải miền Trung có nhiều sông ngắn và dốc. Cửa sông thường bị sóng đẩy cát bồi lấp nên đổi dòng liên tục. Điển hình là cửa Hội An, Quảng Nam, nước sông mùa lũ khó thoát ra, các cồn cát cao duyên hải có bề rộng 500m đến 15 km như ở Lệ Thủy (Quảng Bình), tạo thành con đê thiên nhiên cản trở tiêu úng khi bão lũ làm cho phía trong cồn cát huyện Lệ Thủy có nhiều rốn nước trũng thấp. Đô thị hóa và xây dựng các đường giao thông song song bờ biển càng cản trở tiêu thoát nước trầm trọng. Nhiều nơi ngập sâu lút mái nhà rất nguy hiểm đến sinh mạng con người, vật nuôi và hoa màu mỗi mùa bão lũ (xem thêm Biểu đồ 1).
Miền Trung cần tập trung vượt thổ bằng công nghệ cơ giới hút phun đất, bùn cát chi phí thấp, tạo thành các ốc đảo, thị trấn, thị tứ cao hơn mực nước lũ trung bình hằng năm. Phía trong cần hình thành các hồ nước sâu gắn với quy hoạch nuôi trồng thủy sản bền vững. Các hồ nuôi này sẽ an toàn trước bão lũ do có đê bao xung quanh (nhất canh trì, nhì canh điền, tam canh viên). Đồng thời, với người dân, nhàn nhã nhất là nuôi cá, quên không cho ăn, nó không chết. Vì trong các hồ nuôi lớn “Ao sâu tốt cá”, sinh vật thủy sinh dưới sự quang hợp của mặt trời nó hình thành chuỗi thức ăn tự nhiên và các loài rong tảo, ấu trùng do kỹ thuật thủy sản nuôi cấy bổ sung cho năng suất cao. Trên các con đê bề mặt rộng này quy hoạch khu dân cư làm vườn thâm canh mấy năm đầu thu hoạch chủ yếu là rau màu thân thảo, về sau cây thân gỗ càng lớn càng cho nhiều sản phẩm hoa quả và giá trị khác. Các thị trấn thị tứ này hiện đại hóa dần dần, phát triển hạ tầng y tế, văn hóa, giáo dục để thu hút dân tụ cư…
3.2. Thiết kế và quy hoạch và xây dựng hạ tầng trên và trong đê của vùng lũ
Thứ nhất, về năng lượng, xây dựng hệ thống năng lượng điện tái tạo sức gió và điện mặt trời có nối lưới (On-Grid ) hoặc không nối lưới (Off-Grid).
Thứ hai, về giao thông nội bộ, sử dụng xe điện cục bộ chạy vòng quanh đê bao, kết nối với hệ thống giao thông thủy, bộ của quốc gia, liên tỉnh (quốc lộ, cao tốc hay cảng sông, cảng biển, đường sắt, sân bay…).
Thứ ba, sử dụng tối đa vật liệu tại chỗ của địa phương để giảm chi phí xây dựng (gạch không nung, gạch sét phụ gia, tường bao đất sét đóng rắn phụ gia trong túi dứa …
Thứ tư, xây dựng hạ tầng viễn thông hiện đại cho cụm vượt lũ để trở thành trung tâm điều độ ứng cứu trong khu vực, không bị tê liệt liên lạc khi bão lũ. Mạnh dạn ứng dụng công nghệ điện năng lượng tái tạo không phụ thuộc vào thời tiết để phục vụ các vùng lũ lụt….
Thứ năm, tập trung đầu tư và phát triển kinh tế, tài chính cho khu vực vùng lũ lụt. Thông qua áp dụng mô hình địa phương tự chủ xây dựng dự án vượt lũ có thể thông qua bán trái phiếu do Chính phủ cho phép để tạo nguồn tài chính đầu tư cho các Dự án vượt lũ…, như: tổ chức đấu thầu công khai các nhà đầu tư được phép quyền sử dung đất một phần và khai thác dịch vụ hạ tầng kỹ thuật (điện, đường, trường, trạm, giao thông xe điện, trồng cây kinh tế lâu năm, nuôi trồng thủy sản trong đê …). Lấy chênh lệch địa tô bán trả góp cho người dân theo giá đấu thầu có kỳ hạn để người dân nghèo cũng có cơ hội sở hữu chỗ ở và đất ở trong hệ thống phòng chống bão lũ.
Biến đổi khí hậu, nhiệt độ tăng làm tan băng hai cực trái đất và các đỉnh núi tuyết phủ gây ra hiện tượng nước biển dâng là thực tế khó có thể đảo ngược. Ngày nay, việc xây dựng các mô hình quần cư vượt lũ ven biển là chuẩn bị cho các kịch bản nước biển xâm lấn đồng bằng ven biển nước ta; đồng thời chuyển đổi mô hình canh tác từ đồng ruộng sang canh tác đầm lầy nuôi thủy hải sản mà tổ tiên ta đã làm để chinh phục các đồng bằng thường xuyên úng ngập. Xây dựng sớm các mô hình này chúng ta sẽ tích lũy được kinh nghiệm và công nghệ để sinh tồn, thích ứng với thiên nhiên đầy thách thức sẽ diễn ra trong tương lai.
Như vậy, “An cư mới lạc nghiệp” với hạ tầng phát triển bền vững và an toàn trong vùng lũ, đầu tư từng bước sẽ giúp các vùng bão lũ nguy hiểm ở nước ta sẽ có hạ tầng ổn định, quần cư thịnh vượng,đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Những trận bão lụt kinh hoàng trong lịch sử. https://kinhtedothi.vn/nhung-tran-bao-lut-kinh-hoang-trong-lich-su.html.
2. Các trận lũ lớn ở Miền Bắc Việt Nam. https://vi.m.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_tr%E1%BA%ADn_l%C5%A9_l%E1%BB%9Bn_%E1%BB%9F_Mi%E1%BB%81n_B%E1%BA%AFc_Vi%E1%BB%87t_Nam.
3. TOP 10 trận lũ lụt kinh hoàng nhất trong lịch sử của nước ta. https://www.langf.vn/cam-nang-lang-dai-hoc/top-10-tran-lu-lut-kinh-hoang-nhat-cua-nuoc-ta.
4. Tổng cục Khí tượng thủy văn Việt Nam. http://vnmha.gov.vn.
TS. Tạ Quang Tuấn
Học viện Hành chính và Quản trị công
TS. Lê Minh Hồng
Công ty cổ phần Tập đoàn Tài chính quốc tế VHC