Xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay
Từ khóa: Vùng dân tộc thiểu số, hội nhập quốc tế, xây dựng đời sống văn hóa.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, 53 dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số cả nước, phân bố chủ yếu ở các vùng miền núi, biên giới. Mỗi dân tộc thiểu số lại có các sắc thái văn hoá riêng tạo nên đời sống văn hoá Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc xây dựng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa vùng dân tộc thiểu số nói riêng luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”1.
Trải qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong giai đoạn hiện nay sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, đất nước đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số cũng còn không ít bất cập, hạn chế, yếu kém, tác động tiêu cực tới phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng con người và môi trường văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một trong những mục tiêu được Đảng, Nhà nước xác định ưu tiên, là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn hiện nay.
2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số ở nước ta
2.1. Một số kết quả đạt được
Những năm gần đây, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của các địa phương vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ, điều này đã tạo ra những thuận lợi tác động đến quá trình xây dựng và phát triển văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống hạ tầng văn hóa vùng dân tộc thiểu số từng bước được đầu tư mạnh mẽ và có chiều sâu. Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số cho thấy, đến cuối năm 2019, số xã vùng dân tộc thiểu số có nhà văn hóa chiếm 65,8%2, tỷ lệ thôn có nhà văn hóa/sinh hoạt cộng đồng chiếm 76,7%3, đây là điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động văn hóa, giáo dục và gìn giữ bản sắc dân tộc. góp phần vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội…, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, định hướng thẩm mỹ lành mạnh cho người dân vùng dân tộc thiểu số.
Thứ hai, các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức thường xuyên và ngày càng phong phú, đa dạng cả về nội dung và hình thức. Nhiều lễ hội truyền thống đã được khôi phục và phát triển, thu hút sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Điển hình, như: lễ hội Gầu Tào của người Mông ở Hà Giang, lễ hội Lồng Tồng của người Tày ở Bắc Kạn, hay lễ hội Kin Pang Then của người Thái ở Điện Biên đã trở thành những sự kiện văn hóa đặc sắc. Những lễ hội này không chỉ mang ý nghĩa văn hóa, tâm linh mà còn trở thành điểm nhấn thu hút du khách, góp phần quảng bá và phát triển kinh tế du lịch tại địa phương.
Thứ ba, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các hoạt động giao lưu văn hóa được diễn ra trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như: giao lưu văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng năm; ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và miền Đông Nam Bộ, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường, Dao, Hoa, Thái…
Nhiều loại hình văn hóa phi vật thể độc đáo của các dân tộc thiểu số đã được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, như: không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2008); thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (năm 2019); nghệ thuật Xòe Thái (năm 2022)… Những thành tựu này không chỉ khẳng định giá trị to lớn của văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn tạo động lực mạnh mẽ cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ tư, khả năng tiếp cận thông tin và truyền thông của các hộ dân tộc thiểu số đã được cải thiện đáng kể, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tại vùng dân tộc thiểu có 61,3% số hộ dân tộc thiểu số sử dụng internet; trong đó cao nhất là khu vực Đông Nam Bộ 78.3%, thấp nhất là Tây Nguyên với 46,1%4. Một số hộ có tỷ lệ sử dụng internet ở mức cáo như dân tộc của hộ Tày 73,8%; Hoa 83,7%; Ngái 81,9%; Sán Dìu 80,9%… Điều này không chỉ giúp người dân cập nhật thông tin, mở rộng tầm nhìn mà còn tạo điều kiện để họ tiếp cận với các chương trình giáo dục, giải trí đa dạng. Qua đó, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần, thúc đẩy quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa giữa các dân tộc.
2.2. Những hạn chế và thách thức
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số vẫn đang đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức:
Một là, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa ở nhiều địa phương vẫn còn thiếu thốn và lạc hậu, vẫn có 42,5% số xã chưa có nhà văn hóa, một số tỉnh tỷ lệ xã có nhà văn hóa còn thấp, như: Điện Biên 50,8%; Cao Bằng 28,6%; Hòa Bình 51,8%; Bắc Kạn 36,9%; Lạng Sơn 39,4%; Đắk Lắk 36,4%5. Trong số các thiết chế văn hóa hiện có, nhiều nơi đã xuống cấp nghiêm trọng, một số nhà văn hóa, trung tâm văn hóa chỉ tồn tại mang tính hình thức mà không có hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa thực chất chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi. Tình trạng này không chỉ hạn chế khả năng tổ chức các hoạt động văn hóa mà còn ảnh hưởng đến việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Hai là, nhiều phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng do tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa trong xu thế hội nhập quốc tế của đất nước, điều này vô tình làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, một số phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại dai dẳng, gây ra những hệ lụy không nhỏ cho cộng đồng. Đáng lo ngại nhất là tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn diễn ra ở một số vùng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số và sự phát triển bền vững của cộng đồng. Tỷ lệ tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số vẫn ở mức cao, chỉ tính riêng trong năm 2023, số cặp tảo hôn 500 cặp, giảm 17 cặp so với năm 2022 (517 cặp), chiếm tỷ lệ 15,8 % (năm 2022 số cặp tảo hôn chiếm 18,6%), trong đó: số cặp tảo hôn vợ 189 cặp, số cặp tảo hôn chồng 83 cặp, số cặp tảo hôn cả vợ và chồng 228 cặp6. Còn ở tỉnh Điện Biên, từ năm 2021 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh có tổng số 3.528 số vụ tảo hôn (trong đó tảo hôn vợ hoặc chồng: 1.804 vụ; tảo hôn cả vợ và chồng: 1.724 vụ)7.
Theo thống kê của Chi cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Đắk Lắk về tình hình tảo hôn, quý I/2022, địa phương này vẫn có thêm 32 cặp tảo hôn tại các xã: Cư Pui (huyện Krông Bông); xã Yang Tao (huyện Lăk); xã Cư San (huyện M’Đrăk); xã Vụ Bổn (huyện Krông Pắc). Tuy nhiên, con số thực tế là nhiều hơn vì có nhiều cặp về sống chung với nhau mà chưa đăng ký kết hôn.
Theo báo cáo của Ủy ban dân tộc tỉnh Gia Lai, năm 2022, toàn tỉnh có 952 cặp tảo hôn (trong đó 939 trường hợp là người dân tộc thiểu số, tăng 72 cặp so với năm 2021). Các tỉnh Đắk Nông, Kon Tum, Lâm Đồng cũng có tỷ lệ tảo hôn khá cao.
Những con số không chỉ phản ánh thách thức trong việc thay đổi nhận thức của người dân mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về công tác tuyên truyền, giáo dục và thực thi pháp luật ở vùng dân tộc thiểu số về vấn đề tảo hôn.
Ba là, nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống đang trở nên ngày càng hiện hữu. Nhiều loại hình văn hóa phi vật thể quý giá như ngôn ngữ, chữ viết, trang phục truyền thống, nghề thủ công… đang đứng trước nguy cơ thất truyền. Kết quả điều tra thu thập thông tin kinh tế – xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019 cho thấy, tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ của dân tộc mình còn thấp, chỉ là 15,9%, so với năm 2015, tỷ lệ này đã giảm 0,9%, bình quân mỗi năm giảm 0,2%. Tỷ lệ này cao nhất là ở dân tộc Ê Đê (38,8%), tiếp đến là các dân tộc Ba Na (31,7%), Hoa (31,4%), thấp nhất là ở dân tộc Co, Lự (0,8%)9. Cùng với đó thông qua kết quả điều tra cũng cho thấy,chỉ có 5,5% người dân tộc thiểu số biết sử dụng nhạc cụ truyền thống, trong đó dân tộc Ba Na có tỷ lệ người dân biết sử dụng nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình cao nhất 19,3%9. Điều này không chỉ đe dọa sự tồn vong của ngôn ngữ các dân tộc mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Bốn là, trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cộng đồng các dân tộc thiểu số tại Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ tác động tiêu cực của quá trình này. Một trong những vấn đề nổi bật là sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa ngoại lai và lối sống thực dụng, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Những giá trị truyền thống lâu đời như tín ngưỡng, lễ hội, ngôn ngữ và phong tục tập quán dần bị thay thế bởi các xu hướng hiện đại, xa lạ với bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này không chỉ dẫn đến sự phai nhạt bản sắc mà còn gây ra những xung đột giá trị giữa các thế hệ. Trong khi thế hệ lớn tuổi vẫn cố gắng duy trì nếp sống truyền thống, thế hệ trẻ lại có xu hướng chạy theo những giá trị mới mẻ, hiện đại hơn, từ đó làm gia tăng sự mất cân bằng và bất ổn trong đời sống văn hóa cộng đồng. Về lâu dài, nếu không có những biện pháp bảo tồn và phát huy kịp thời, sự xung đột này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định và phát triển bền vững của các cộng đồng dân tộc thiểu số.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số ởnước ta hiện nay
(1) Nhìn chung, điều kiện kinh tế – xã hội của vùng dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn. Khu vực sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung ở những nơi có địa hình hiểm trở, giao thông không thuận lợi và cách xa các trung tâm kinh tế. Đây là những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sinh kế của người dân. Phần lớn kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chỉ tập trung vào các hoạt dộng nông nghiệp, vì vậy đồng bào dân tộc thiểu số ít có cơ hội và thời gian để tham gia vào các hoạt động văn hóa. Bên cạnh đó, hệ thống đường giao thông ở các khu vực miền núi, nhất là vùng biên giời còn nhiều hạn chế, cũng cản trở sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, dẫn đến việc sinh hoạt văn hóa cộng đồng còn hạn chế, thiếu sôi động.
(2) Do đặc điểm cư trú phân tán, đan xen trên địa bàn rộng lớn. Các dân tộc thiểu số thường sinh sống chủ yếu ở vùng đồi núi, với mật độ dân số thưa thớt và phân tán rải rác ở nhiều nơi. Đặc điểm này gây ra nhiều khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động văn hóa với quy mô lớn, tập trung đông người. Để tổ chức các hoạt động văn hóa tại những địa bàn này đòi hỏi sự đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa và kinh phí lớn, trong khi nguồn lực còn hạn chế. Đồng thời, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng trở nên khó khăn hơn do việc tổ chức, tập hợp cộng đồng rất phức tạp.
(3) Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế – xã hội. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân chưa thực sự nhận thức rõ vai trò quan trọng của văn hóa trong phát triển toàn diện. Các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở vùng dân tộc thiểu số đôi khi tập trung nhiều vào khía cạnh kinh tế mà bỏ qua yếu tố văn hóa. Điều này dẫn đến việc đầu tư vào văn hóa chưa được ưu tiên hoặc chưa đúng mức. Ví dụ, nhiều địa phương chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, như: đường xá, trường học, bệnh viện nhưng ít quan tâm đến xây dựng các thiết chế văn hóa như: nhà văn hóa, sân khấu cộng đồng.
(4) Hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa tại các địa phương còn nhiều bất cập. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong việc quản lý và phát triển văn hóa chưa đồng bộ và hiệu quả. Các chính sách bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống thiếu tính đặc thù, không phù hợp với điều kiện địa phương. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách văn hóa chưa được thực hiện thường xuyên dẫn đến tình trạng thiếu hiệu quả trong triển khai.
(5) Đầu tư nguồn lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Đầu tư nguồn lực cho phát triển văn hóa vùng dân tộc thiểu số vẫn còn rất hạn chế. Điều này dẫn đến sự thiếu hụt cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ các hoạt động văn hóa, không đủ để đáp ứng nhu cầu của người dân. Bên cạnh đó, việc tổ chức các chương trình bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng gặp khó khăn do thiếu kinh phí và đội ngũ cán bộ văn hóa ở các vùng này còn mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu.
3. Một số giải pháp xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Trước những thách thức và cơ hội mà quá trình hội nhập quốc tế mang lại, việc xây dựng và phát triển đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số đòi hỏi cần có những giải pháp thiết thực và hiệu quả. Để một mặt vừa bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc, mặt khác thúc đẩy sự phát triển, phát huy các giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số trong xu thế hội nhập,. Những giải pháp này không chỉ giúp khắc phục những khó khăn, thách thức trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của văn hóa các dân tộc thiểu số trong tương lai. Theo đó cần tập trung làm tốt một số nội dung, biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách về xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số.
Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm xây dựng và phát triển đời sống văn hóa tại vùng dân tộc thiểu số là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước tiên, cần tiến hành rà soát và sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến văn hóa vùng dân tộc thiểu số, bảo đảm các quy định này có tính đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tiễn. Các chính sách cần thể hiện rõ sự ưu đãi đặc thù cho khu vực này, như các chương trình hỗ trợ bảo tồn di sản văn hóa, phát triển du lịch văn hóa gắn với lợi ích cộng đồng. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng là xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc triển khai các chương trình, dự án văn hóa. Để việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số được bền vững, cần có những cơ chế khuyến khích khu vực tư nhân và cộng đồng tham gia tích cực. Ví dụ, các doanh nghiệp tư nhân có thể đầu tư vào việc phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa, trong khi cộng đồng dân tộc thiểu số có vai trò chủ chốt trong việc giữ gìn và phát triển di sản văn hóa phi vật thể của mình. Như vậy, sự đồng bộ giữa cơ chế quản lý của nhà nước, sự tham gia của cộng đồng và khu vực tư nhân sẽ là yếu tố nền tảng giúp duy trì và phát huy các giá trị văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng văn hóa cho vùng dân tộc thiểu số.
Để bảo đảm đời sống văn hóa tại vùng dân tộc thiểu số phát triển bền vững, việc đầu tư vào cơ sở vật chất và hạ tầng văn hóa cần được chú trọng. Trước hết, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở, như:nhà văn hóa, thư viện và bảo tàng cần được xây dựng và nâng cấp, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Các cơ sở văn hóa này không chỉ là nơi tổ chức các sự kiện văn hóa mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Việc đầu tư trang thiết bị hiện đại cho các thiết chế này cũng là cần thiết giúp tăng cường khả năng lưu trữ và trưng bày các di sản văn hóa. Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin cũng là một giải pháp quan trọng, giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin văn hóa và kết nối với thế giới bên ngoài, từ đó mở rộng cơ hội giao lưu văn hóa.
Một ý tưởng khác là xây dựng các khu bảo tồn văn hóa, làng văn hóa truyền thống gắn với du lịch cộng đồng. Những khu vực này sẽ là nơi vừa bảo tồn di sản văn hóa, vừa tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho người dân thông qua hoạt động du lịch. Sự kết hợp giữa hạ tầng văn hóa và công nghệ hiện đại sẽ giúp tăng cường khả năng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong thời đại số hóa.
Thứ ba, nâng cao nhận thức và vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong xây dựng đời sống văn hóa.
Để bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, vai trò chủ thể của cộng đồng dân tộc thiểu số cần được đặc biệt chú trọng. Điều này đòi hỏi các chiến dịch truyền thông và giáo dục nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống phải được tổ chức rộng rãi và hiệu quả. Các chương trình này có thể bao gồm các hoạt động truyền thông qua đài phát thanh, truyền hình hoặc thông qua các buổi sinh hoạt cộng đồng, giúp người dân hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc giữ gìn văn hóa dân tộc. Khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cũng là yếu tố then chốt. Cộng đồng không chỉ là đối tượng thụ động mà phải là chủ thể trực tiếp tham gia vào các hoạt động bảo tồn, như: tổ chức lễ hội, bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể. Việc tổ chức các cuộc thi, liên hoan văn hóa sẽ tạo ra sân chơi để người dân thể hiện tài năng và quảng bá văn hóa dân tộc, từ đó khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm với văn hóa truyền thống. Hỗ trợ việc thành lập và phát triển các câu lạc bộ, nhóm sinh hoạt văn hóa truyền thống tại các cộng đồng cũng là cách để tăng cường sự kết nối giữa các thế hệ, tạo môi trường để truyền dạy và gìn giữ các giá trị văn hóa lâu dài.
Thứ tư, đẩy mạnh bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số.
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống là nhiệm vụ cấp thiết nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số. Trước hết cần tiến hành điều tra, kiểm kê và lập hồ sơ di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số và việc này phải được thực hiện một cách toàn diện và có hệ thống. Qua đó, giúp tạo ra cơ sở dữ liệu rõ ràng và chính xác về các di sản văn hóa, từ đó có những biện pháp bảo tồn cụ thể, hiệu quả. Ngoài ra, các dự án bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết, trang phục và ẩm thực truyền thống cần được hỗ trợ mạnh mẽ, bởi đây là những yếu tố cốt lõi thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Cùng với đó, các lễ hội và nghệ thuật trình diễn truyền thống cần được phục dựng và phát triển, nhằm khơi dậy niềm tự hào văn hóa trong cộng đồng và quảng bá đến du khách. Một trong những giải pháp tiên tiến là xây dựng cơ sở dữ liệu số hóa về văn hóa dân tộc thiểu số, giúp lưu trữ, bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa một cách bền vững. Cơ sở dữ liệu này không chỉ phục vụ cho việc nghiên cứu mà còn là công cụ hiệu quả để giới thiệu văn hóa dân tộc thiểu số ra thế giới.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực văn hóa cho vùng dân tộc thiểu số
Phát triển nguồn nhân lực văn hóa là yếu tố then chốt để duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tại vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh phía Bắc. Việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ văn hóa cơ sở là nhiệm vụ quan trọng, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số. Họ là những người hiểu rõ nhất về phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa của dân tộc mình, từ đó có thể triển khai các chương trình bảo tồn văn hóa một cách hiệu quả. Hỗ trợ đào tạo nghề cho các nghệ nhân và những người có tay nghề trong lĩnh vực văn hóa truyền thống cần được đẩy mạnh nhiều hơn, bởi họ chính là những người giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa qua các sản phẩm nghệ thuật truyền thống như thổ cẩm, điêu khắc, gốm sứ. Bên cạnh đó, việc tổ chức các khóa tập huấn về quản lý văn hóa và du lịch cộng đồng cho cán bộ địa phương và người dân cũng là cách để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong việc phát triển văn hóa và kinh tế. Cuối cùng, cần có các chính sách thu hút nhân tài trong lĩnh vực văn hóa về làm việc tại vùng dân tộc thiểu số, nhằm tạo ra đội ngũ chuyên gia, cán bộ có năng lực và nhiệt huyết, đóng góp vào sự phát triển bền vững của văn hóa dân tộc thiểu số.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế là cơ hội lớn để bảo tồn và phát huy văn hóa vùng dân tộc thiểu. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNESCO là cần thiết để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính, đồng thời nâng cao nhận thức toàn cầu về giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam. Các sự kiện văn hóa quốc tế, hội chợ, liên hoan nghệ thuật cần được tổ chức thường xuyên để giới thiệu và quảng bá văn hóa dân tộc thiểu số ra thế giới. Điều này không chỉ giúp bảo tồn văn hóa mà còn tạo cơ hội thu hút du khách quốc tế, mở rộng thị trường du lịch văn hóa. Ngoài ra, việc tham gia các chương trình trao đổi văn hóa và nghệ thuật với các quốc gia có nền văn hóa tương đồng sẽ giúp các nghệ sĩ, nghệ nhân địa phương học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm từ các quốc gia khác. Qua đó không chỉ làm phong phú thêm nền văn hóa bản địa mà còn giúp các nghệ nhân, cán bộ văn hóa phát triển kỹ năng và tư duy quản lý.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 47.
2, 3, 4. Tổng cục Thống kê (2019). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trang kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. H. NXB Thống kê, tr. 115, 117, 199, 199, 78.
6. Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu (2024). Báo cáo số 25-BC/BCSĐ ngày 16/01/2024 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 06/4/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với việc giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống năm 2023.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên (2023). Báo cáo số 4957/BC-UBND ngày 24/10/2023 về sơ kết thực hiện Đề án 498 giai đoạn II (2021 – 2025) và Tiểu Dự án 2, Dự án 9 “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” thuộc Chương trình Mặt trận Tổ quốc phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025.
5, 8. Tổng cục Thống kê (2019). Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế – xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019. H. NXB Thống kê, tr. 115, 78.
9. Bảo tồn và phát huy giá trị nhạc cụ truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số.https://dangcongsan.vn/chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dong-bao-dtts-mn/chinh-sach-va-cuoc-song/bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-nhac-cu-truyen-thong-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so-645517.html
Nguồn: Xây dựng đời sống văn hóa vùng dân tộc thiểu số trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay