Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc trong quản trị quốc gia
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của thanh niên Việt Nam Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa quân sự Việt Nam |
Từ khóa: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa; chủ nghĩa xã hội; đổi mới quản trị quốc gia.
1. Quan niệm về bản sắc văn hóa của dân tộc
Bản sắc văn hóa hay truyền thống văn hóa dân tộc được coi là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc đó trong lịch sử. Bản sắc dân tộc của văn hóa là hệ giá trị của dân tộc được sáng tạo và được vun đắp và lưu truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chỉ khi nào giá trị văn hóa của một dân tộc được hình thành tồn tại lâu dài và trải qua thử thách mà vẫn không mất đi thì dân tộc đó mới có được bản sắc văn hóa. Vì vậy, “Bản sắc văn hóa dân tộc chính là những đặc trưng văn hóa đã trở thành bền vững”1.
Thứ nhất, bản sắc dân tộc của văn hóa là một hệ thống giá trị văn hóa đã được hình thành phát triển trong suốt lịch sử của mỗi dân tộc, mang đậm trí tuệ, phong cách văn hóa tạo thành sắc thái, dấu ấn, bản lĩnh riêng, thành cái cốt lõi, tinh túy, là linh hồn và truyền thống của một dân tộc, thể hiện trong hoạt động vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc;
Thứ hai, bản sắc dân tộc của văn hóa luôn phát huy tính có ích trong đời sống xã hội đương đại, không chỉ là những giá trị quá khứ mà còn là thực tại và hướng đến tương lai. Cũng cần chú ý là bản sắc dân tộc của văn hóa là sự kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc của dân tộc, có tính bền vững và trường tồn trong lịch sử mà nhờ đó thế hệ sau kế thừa phát triển ngay trên giá trị quá khứ, tiếp thu giá trị hiện đại. Nó là chất keo dính gắn bó cộng đồng người với nhau. Là cội nguồn, gốc rễ sinh tồn và phát triển của mỗi dân tộc bởi lao động, đấu tranh hay sáng tạo của cả cộng đồng với sự tiếp nối qua bao thế hệ con người. Thông qua bản sắc dân tộc của văn hóa có thể cảm nhận và hiểu rõ được dân tộc đó đã sản sinh ra như thế nào và sẽ phát triển ra sao trong sự phát triển của nhân loại. Với ý nghĩa đó, bản sắc dân tộc của văn hóa định hướng tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa không phải là phạm trù tuyệt đối mà là phạm trù lịch sử, có quá trình hình thành và phát triển trong xã hội, chứa đựng những giá trị thiêng liêng của một dân tộc.
2. Nhận diện vấn đề đổi mới quản trị quốc gia trong kỷ nguyên mới
Đổi mới quản trị quốc gia (hoặc cải cách quản lý nhà nước) là một quá trình sâu rộng và toàn diện nhằm cải thiện cách thức hoạt động của hệ thống chính trị, hành chính và các tổ chức trong việc phục vụ người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Trong bối cảnh này, một số vấn đề chính có thể nhận diện như sau:
Thứ nhất, cải cách thể chế và hệ thống pháp lý.
Quá trình chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều bất cập trong hệ thống pháp lý, điều hành quản lý nhà nước. Hệ thống pháp luật cần phải thay đổi để phù hợp với cơ chế thị trường, nhưng không làm mất đi tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách hệ thống pháp luật và thể chế chính trị cần được tiến hành một cách đồng bộ, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung các luật liên quan đến kinh tế, chính trị – xã hội; đồng thời, nâng cao năng lực của bộ máy nhà nước để thực hiện các chính sách này.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong các cơ quan hành chính và quản lý kinh tế còn nhiều bất cập về sự thiếu minh bạch, năng lực chuyên môn và tinh thần phục vụ người dân. Việc phân cấp, phân quyền còn chưa rõ ràng, dẫn đến sự kém hiệu quả trong quản lý. Cải cách bộ máy nhà nước cần chú trọng đến việc cải thiện năng lực cán bộ, tạo ra một hệ thống kiểm tra, giám sát hiệu quả và giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. Việc này đòi hỏi phải cải cách mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường trách nhiệm và đạo đức công vụ.
Thứ ba, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc quản lý kinh tế còn gặp khó khăn, đặc biệt là trong việc điều tiết thị trường, quản lý các doanh nghiệp nhà nước và các nguồn lực quốc gia. Các cơ chế điều hành hiện tại đôi khi không phù hợp với yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới. Do đó, cần phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường đầy đủ hơn, đặc biệt trong việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân và giải quyết mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế. Đồng thời, phải tiếp tục duy trì và củng cố vai trò của Nhà nước trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô, bảo vệ lợi ích công cộng và an sinh xã hội.
Thứ tư, tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội
Mặc dù Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vai trò của người dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng thực tế sự tham gia của người dân vào các quyết sách, đặc biệt là trong các vấn đề xã hội và kinh tế còn hạn chế. Do đó, cần phải phát huy hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền tham gia của người dân trong các quyết định lớn của đất nước. Các cơ chế giám sát của xã hội, cộng đồng và tổ chức xã hội cũng cần được hoàn thiện.
Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực và đổi mới giáo dục.
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến sự thành công của quá trình đổi mới quản trị quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam còn thiếu tính liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn cũng như thiếu các kỹ năng cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục cải cách giáo dục, đào tạo nghề, cũng như tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, quản lý và kỹ thuật. Đồng thời, cần có những chính sách khuyến khích phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo có phẩm chất và năng lực.
Thứ sáu, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số.
Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn trong việc phát triển kinh tế số và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước. Các cơ quan nhà nước vẫn còn chậm trong việc ứng dụng công nghệ mới để tối ưu hóa hiệu quả công việc và phục vụ người dân. Vì thế, cần tăng cường đầu tư vào công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước. Cải cách này sẽ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu tham nhũng và tạo ra sự minh bạch trong hoạt động công vụ. Đổi mới quản trị quốc gia đòi hỏi một quá trình cải cách toàn diện, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt thể chế, chính trị và xã hội. Những vấn đề trên là thách thức lớn, nhưng nếu được giải quyết đúng đắn, sẽ giúp Việt Nam phát triển bền vững và đạt được mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Nhận diện thách thức và thời cơ của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình đổi mới quản trị quốc gia hiện nay
(1) Về thời cơ, thuận lợi
Một là, giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa tinh hoa của nhân loại trong xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vì sự nghiệp đổi mới và phát triển. Hiện nay, nhận thức của người dân về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc đã có sự chuyển biến tích cực. Nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, đang có xu hướng tìm hiểu và gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống qua các hoạt động cộng đồng, giáo dục và sáng tạo nghệ thuật. Đây là một nguồn động lực lớn trong việc duy trì và phát triển bản sắc văn hóa.
Hai là, toàn cầu hóa giúp cho Việt Nam có điều kiện nhìn nhận lại chính mình khi so sánh, đối chiếu với văn hóa nhân loại. Thông qua giao lưu, hợp tác quốc tế, các lĩnh vực của đời sống văn hóa của Việt Nam có cơ hội được đối sánh với văn hóa nước ngoài để bộc lộ những ưu điểm hay những mặt còn hạn chế; qua đó các chủ thể văn hóa dân tộc có thể tiến hành tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và thực hiện quá trình tiếp biến văn hóa… Đặc biệt hiện nay, với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện truyền thông và sự bùng nổ của các ngành công nghiệp sáng tạo, toàn cầu hóa trên lĩnh vực văn hóa đã và đang mở ra nhiều cơ hội mới cho sự học hỏi, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, chia sẻ giá trị văn hóa, để văn hóa Việt Nam có thể được quảng bá rộng rãi ra nước ngoài và hiện diện trên bản đồ văn hóa thế giới.
Ba là, toàn cầu hóa thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa song hành, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hóa, văn minh nhân loại để làm giàu kho tàng văn hóa dân tộc. Bằng cách đó, những yếu tố văn hóa tiến bộ được dung nạp và những yếu tố văn hóa lạc hậu lỗi thời đang kìm hãm sự phát triển bị loại bỏ – trong khi diện mạo văn hóa riêng của Việt Nam vẫn được khẳng định. Thông qua xu thế toàn cầu hóa, bản lĩnh văn hóa Việt Nam được thể hiện rất sâu sắc.
Bốn là, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở Việt Nam được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước hoàn thiện. Đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng; qua đó vai trò điều tiết của văn hóa tiếp tục được phát huy.
Năm là, Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các chính sách, nghị quyết về phát triển văn hóa, như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) và Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đều nhấn mạnh việc giữ gìn bản sắc văn hóa trong quá trình phát triển đất nước.
(2) Về khó khăn, thách thức
Toàn cầu hóa, đặc biệt trong thời đại số, tạo ra sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ, dẫn đến nguy cơ “mất bản sắc” khi những giá trị văn hóa ngoại lai, đặc biệt là từ phương Tây, xâm nhập mạnh mẽ vào xã hội. Các hình thức văn hóa toàn cầu, như văn hóa tiêu dùng, công nghệ thông tin, truyền thông đại chúng đang dần thay thế các giá trị văn hóa truyền thống, gây khó khăn cho việc duy trì những yếu tố đặc trưng của nền văn hóa dân tộc.
Các giá trị văn hóa của các quốc gia lớn, đặc biệt là văn hóa phương Tây, dễ dàng xâm nhập và chi phối, khiến một bộ phận người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, dần quên đi các giá trị cốt lõi của dân tộc. Công nghệ hiện đại đã tạo ra sự thay đổi trong cách thức lưu giữ và truyền bá văn hóa nhưng cũng có thể khiến văn hóa truyền thống bị “biến dạng” khi tiếp xúc với các hình thức truyền thông và giải trí không kiểm soát. Khi các giá trị văn hóa truyền thống không được cập nhật hoặc tương thích với nền tảng kỹ thuật số và mạng xã hội, chúng có thể trở nên lỗi thời và mất dần sự hấp dẫn đối với thế hệ trẻ.
Sự thay đổi trong lối sống và phong cách của người Việt Nam có thể dẫn đến mất mát văn hóa và truyền thống địa phương. Nhiều nghi thức, tín ngưỡng, tập quán và nghệ thuật đang trở nên ít được quan tâm và bị lãng quên. Những giá trị văn hóa truyền thống, như tinh thần nhân ái nhân văn, sự tôn trọng gia đình, huyết thống… cũng đang có biểu hiện rạn vỡ, để lại nhiều “vết thương” trong lòng xã hội. Và không thể nói điều này không liên quan đến việc du nhập, tiếp thu một cách thiếu chọn lọc những quan điểm, lối sống từ nhiều nền văn hóa khác nhau trong quá trình hội nhập.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều bất cập, lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng. Bệnh thành tích và hình thức trong tổ chức các hoạt động, các sự kiện văn hóa ngày càng lan rộng; thành tựu sáng tạo văn học, nghệ thuật chưa nổi bật. Hoạt động hợp tác, giao lưu văn hóa với nước ngoài còn hạn chế; vẫn còn tình trạng tiếp thu và tiếp nhận dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa bên ngoài, tác động tiêu cực đến văn hóa trong nước… Các chính sách văn hóa chưa thực sự được ưu tiên, ngân sách dành cho văn hóa còn hạn chế. Điều này dẫn đến việc thiếu sự đầu tư vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; đồng thời, gây khó khăn trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực có tri thức, kiến thức, năng lực bảo tồn di sản văn hóa.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân để văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường huy động, phát huy tối đa hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để phát triển toàn diện văn hóa, để văn hóa, con người thực sự là sức mạnh nội sinh của dân tộc ta. Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; đầu tư thích đáng cả về nguồn lực con người, vật chất cho phát triển văn hóa theo chiều sâu, nhanh, bền vững. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thứ hai, cần chủ động nhận diện và tiếp tục lưu giữ và phát triển hệ thống các giá trị chuẩn văn hóa mới chung của quốc gia, địa phương trong quá trình hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; đặc biệt đề cao việc xây dựng thế giới quan khoa học, nâng cao trí lực, tri thức, bồi dưỡng kỹ năng sống và năng lực cảm thụ thẩm mỹ, hưởng thụ và sáng tạo văn hóa hướng tới các giá trị chân – thiện – mỹ; đề cao tinh thần đoàn kết cộng đồng, tương thân tương ái, tự hào và tự tôn dân tộc, trách nhiệm và tính tích cực cá nhân gắn kết hài hòa với trách nhiệm cộng đồng và tính tích cực xã hội; chủ động tự giác, tự trọng, tự chủ, tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chuẩn đạo đức, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thị trường. Đồng thời, gạt bỏ những khía cạnh hạn chế, sai trái, tiêu cực, cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu làm tha hóa con người và ô nhiễm đời sống tinh thần cộng đồng và suy thoái đạo đức xã hội…
Thứ ba, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phục vụ nhân dân, môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số, công dân số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cải thiện nhiều hơn nữa điều kiện hưởng thụ văn hóa của Nhân dân. Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả các loại hình văn hóa, văn nghệ, văn học nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các giá trị độc đáo, khác biệt của văn hóa dân tộc. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc và phù hợp với văn hóa, điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, tạo sự đột phá trong phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, phát huy tối đa sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam.
Gắn kết chặt chẽ văn hóa với các hoạt động sản xuất, kinh doanh để nâng cao giá trị gia tăng, khai thác tối đa các giá trị của chiều sâu văn hóa Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa, đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; chủ động nâng cao sức đề kháng của Nhân dân đối với các văn hóa xấu độc.
Thứ tư, phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự “là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế”3. Đối với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta tập trung vào những nội dung có tính “cốt tử” là: “Khơi dậy tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu”4.
Thứ năm, chú trọng bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, bản sắc và truyền thống dân tộc. Coi trọng sưu tầm, khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tiếp tục tổ chức ngày hội văn hóa của một số dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa tiêu biểu nhằm nâng cao ý thức giữ gìn và tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Gìn giữ các tác phẩm nghệ thuật, bảo vật, cổ vật và di vật có giá trị đặc sắc. Nâng cao chất lượng các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình văn hóa, có kế hoạch đầu tư cho khâu sáng tác kịch bản, dàn dựng chương trình, vở diễn, đào tạo tài năng nghệ thuật; tổ chức các cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật để có những tác phẩm đỉnh cao, các chương trình nghệ thuật hấp dẫn, có tính giáo dục, nâng cao thẩm mỹ phục vụ nhân dân, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực trong hoạt động văn hóa.
Thứ sáu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo phong trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển của các dân tộc.
Thứ bảy, chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh, bền bỉ tuyên truyền, giáo dục, nhất là trong thế hệ trẻ, đề phòng tâm lý sính ngoại; mặt khác, cũng tránh tâm lý khép kín, coi thường những giá trị các dân tộc. Thực hiện đúng lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của mình”5; “Mỗi một dân tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc trong nghệ thuật”6; “Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”7.
Thứ tám, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam đã tồn tại trong lịch sử; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của Nhân dân.
5. Kết luận
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh đổi mới quản trị quốc gia hiện nay không chỉ là một yêu cầu cấp thiết mà còn là một quá trình phức tạp, đụng chạm đến nhiều lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến xã hội và văn hóa. Trong quá trình đổi mới, việc cân bằng giữa phát triển và bảo tồn là một thách thức lớn, đồng thời cũng mở ra những cơ hội mới để phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình đổi mới quản trị quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng nhưng không dễ dàng. Việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam vừa là thách thức lớn, vừa là thời cơ quý giá. Việc kết hợp các giá trị văn hóa truyền thống với sự sáng tạo và tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa hiện đại sẽ giúp Việt Nam xây dựng được một nền văn hóa phát triển mạnh mẽ và hội nhập. Đồng thời, sự quan tâm và chính sách bảo vệ, phát triển văn hóa của Nhà nước sẽ góp phần giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc trong thời kỳ mới.
Chú thích:
1. Bảo tàng Cách mạng TP. Hồ Chí Minh (1999). Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vai trò của nghiên cứu và giáo dục. NXB TP. Hồ Chí Minh, tr. 101.
2. Đỗ Huy (1990). Bản sắc dân tộc của văn hóa. H. NXB Văn hóa, tr. 27.
3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 47, 135.
5, 6, 7. Hồ Chí Minh – Tuyển tập văn học (1995). Tập 2. H. NXB Văn học, tr. 438, 374, 421.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo phát triển con người Việt Nam (2001). H. NXB Chính trị Quốc gia.
2. Thành Duy (2007). Văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa – thời cơ và thách thức. H. NXB Văn hóa Thông tin.
3. Bùi Thanh Quất (2003). Toàn cầu hóa – một cách tiếp cận mới. Tạp chí Cộng sản, số 27/2003.
4. Nguyễn Ngọc Thiện (2017). Việt Nam chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. Tạp chí Cộng sản số 901 (11/2017).
Nguồn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc trong quản trị quốc gia
Lê Văn Phúc
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại TP. Hồ Chí Minh
Trần Thành Ẩn
Trường Đại học Khoa học sức khỏe, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Thị trường chứng khoán ngày 20/3: Tiếp tục rung lắc, thanh khoản thận trọng

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 21/3/2025: Tuổi Dần tài lộc ổn định, tuổi Mùi gặp nhiều khó khăn

Australia đóng cửa 2 bãi biển do bọt ô nhiễm trôi dạt vào bờ

Hệ sinh thái rạn san hô Hòn Mun đang dần phục hồi

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc trong quản trị quốc gia
