Phát triển bền vững từ thích ứng biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu tác động như thế nào đến từng quốc gia trên thế giới? Thách thức của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên rừng |
Việt Nam chịu tác động nặng nề bởi biến đổi khí hậu
Trong giai đoạn 2011 - 2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế. Thiệt hại trực tiếp đối với tài sản công và tư khoảng 2,4 tỷ USD/năm (tương đương 0,8% GDP) do các hiện tượng thời tiết cực đoan. Hơn nữa, nếu tính theo chi phí suy thoái môi trường nói chung, thiệt hại do BĐKH được ước tính khoảng 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP.
Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi BĐKH. Ảnh: Internet. |
Cũng trong khoảng thời gian này, thiên tai đã khiến 2.153 người tử vong, 316 người mất tích và 4.117 người bị thương. Các tổn thất sau thiên tai còn bao gồm dịch bệnh do nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, vấn đề sức khỏe tinh thần do sang chấn tâm lý và lo âu, căng thẳng. BĐKH cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng di cư và khiến hàng chục ngàn hộ gia đình buộc phải di dời chỗ ở vĩnh viễn, gây nguy cơ mất bản sắc văn hóa và tri thức địa phương.
Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao là nông nghiệp, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nhà ở và hạ tầng kỹ thuật do có mức độ phơi bày và mức độ nhạy cảm cao với thiên tai, khí hậu cực đoan. Biến đổi khí hậu là nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra tại một số nơi có thể làm đảo ngược những thành tựu đã đạt được trong thời gian dài – Báo cáo đưa ra nhận định.
Sự gia tăng tần suất và cường độ các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến gia tăng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và người dân. Do tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nguy cơ ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước cấp cho sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Theo NDC 2022, với dải ven biển có chiều dài 3.260km và các vùng biển hải đảo, Việt Nam sẽ chịu nhiều rủi ro, tác động tiềm tàng liên quan đến BĐKH và nước biển dâng. Rủi ro sẽ gia tăng đối với các vùng đồng bằng và ven biển, đặc biệt là các đô thị ven biển do mật độ dân cư cao, quy hoạch đô thị/không gian chưa tính đến tác động của BĐKH.
Nỗ lực thích ứng biến đổi khí hậu của Việt Nam
Tại Hội nghị COP 27 vừa diễn ra tại Ai Cập, Đoàn Việt Nam đã gửi NDC cập nhật đến Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu. Báo cáo cho thấy nỗ lực của Việt Nam cả về thích ứng BĐKH và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Đặc biệt, nhấn mạnh những tổn thất và thiệt hại do BĐKH gây ra và dự báo tác động trong tương lai.
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Internet. |
Tại Việt Nam, trong nhiều năm qua, nội dung thích ứng BĐKH luôn song hành với giảm phát thải khí nhà kính trong các chủ trương, chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch về biến đổi khí hậu và thực hiện các cam kết quốc tế của Đảng, Chính phủ. Các văn bản mới đây nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021); Luật Bảo vệ môi trường (2022); Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 (2022); Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (2022); Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia (2022)… Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách này, các Bộ, ngành, địa phương đã tiếp tục ban hành các kế hoạch hành động ứng phó BĐKH, tăng trưởng xanh, thực hiện Thỏa thuận Paris và lồng ghép trong lộ trình phát triển kinh tế xã hội giai đoạn tới.
Các chương trình, dự án thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực giúp tăng khả năng phòng chống từ xa, tăng sức chống chịu trước thiên tai như: Giám sát khí hậu, cảnh báo sớm thiên tai; ứng phó với thiên tai, chống ngập cho các thành phố lớn, củng cố đê sông, đê biển và an toàn hồ chứa; bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nước; xây dựng cộng đồng thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; bảo vệ, phát triển bền vững rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Báo cáo cũng khẳng định, Việt Nam đã đạt được những bước tiến trong việc huy động đầu tư cho thích ứng với BĐKH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế song song với bảo vệ tài nguyên và môi trường. Điều này thể hiện qua tỷ trọng nguồn vốn trong nước cao hơn nguồn ODA, bên cạnh đó, nguồn tài chính tư khu vực tư nhân có xu hướng tăng dần trong thời gian qua.
NDC 2022 đưa ra cụ thể những thiếu hụt trong lĩnh vực thích ứng hiện nay và xác định mục tiêu thích ứng trong thời gian tới. Đó là: Giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương và rủi ro trước tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu thông qua nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, giảm thiểu tổn thất và thiệt hại do thiên tai, khí hậu cực đoan gia tăng và nước biển dâng do biến đổi khí hậu; thúc đẩy lồng ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chiến lược, quy hoạch.
Nguồn:Phát triển bền vững từ thích ứng biến đổi khí hậu