Tiềm năng và thách thức trong nuôi trồng thủy sản trên biển
Xây dựng chuỗi liên kết du lịch và nuôi trồng thủy sản trên biển Mục tiêu đến năm 2030, nghề nuôi biển đạt sản lượng 1,45 triệu tấn |
Với đường bờ biển dài, nhiều eo vịnh, đảo, nước ta có tiềm năng to lớn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên biển. Biển Đông còn là ngôi nhà của hàng nghìn loài hải sản nhiệt đới rất phong phú, trong đó nhiều loài có giá trị kinh tế cao như cá chim, cá mú, cá vược, tôm hùm, bào ngư, các loài nhuyễn thể…
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), diện tích nuôi biển mới chỉ chiếm khoảng hơn 20% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản cả nước. Rất ít doanh nghiệp tham gia đầu tư nuôi biển quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, máy móc thiết bị còn đơn giản, thiếu con giống, thức ăn và công nghệ lồng nuôi lạc hậu. Phần lớn vật liệu lồng nuôi được làm từ gỗ hoặc tre, quả phao xốp nổi và khối xốp. Lồng nuôi thô sơ nên không chịu được sóng gió, dễ bị sóng đánh hư hỏng, còn vật liệu xốp gây ô nhiễm môi trường biển nghiêm trọng sau thời gian bị thải bỏ.
Việt Nam có tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản trên biển. |
Theo các chuyên gia, Việt Nam có 1 triệu km mặt biển trên tổng chiều dài 3.260 km bờ biển, trong đó có khoảng 500 nghìn ha mặt nước có thể nuôi biển. Do đó, rất có tiềm năng phát triển nghề nuôi trồng thủy sản trên biển. Công tác nuôi biển cũng nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua hàng loạt các chính sách, chủ trương. Điển hình là Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đã được phê duyệt với tầm nhìn, mục tiêu, giải pháp cụ thể.
Theo đó, việc chuyển đổi sang nuôi hải sản xa bờ, phát triển quy mô công nghiệp, hướng tới xuất khẩu, nâng cao chất lượng và giá trị thủy sản Việt Nam được xem là xu hướng tất yếu nhằm đạt mục tiêu từ nay đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280 nghìn ha với 10 triệu m3 lồng nuôi và sản lượng khoảng 850 nghìn tấn, xuất khẩu đạt từ 0,8-1 tỷ USD. Đến năm 2030, diện tích nuôi biển đạt 300 nghìn ha với 12 triệu m3 lồng nuôi và sản lượng 1,45 triệu tấn, xuất khẩu đạt từ 1,8-2 tỷ USD.
Các chuyên gia cho rằng, chúng ta có nhiều thuận lợi, có thể khai thác nghề nuôi biển không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bên cạnh đó, cũng còn nhiều khó khăn, trong đó 99% số trại nuôi trên biển là quy mô hộ gia đình nên sức đầu tư nhỏ, mức độ cơ giới hóa yếu, phần lớn các bè nuôi thủ công, tận dụng các vật liệu, trong đó có vật liệu có thể gây hại môi trường. Cùng với đó, các chuỗi nuôi biển đang manh nha nhưng nhỏ, chưa có sự kết nối hay việc cung cấp cá giống cũng chưa được kiểm định chặt chẽ.
Thống kê năm 2022, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 1,3 triệu ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm nước lợ 737 nghìn ha. Ước sản lượng nuôi tôm nước lợ năm 2022 đạt 745 nghìn tấn.Về nuôi biển, diện tích khoảng 9 triệu m3 lồng. Tổng sản lượng 670 nghìn tấn, tăng 3,5% so với năm 2021. Trong đó, cá biển 40 nghìn tấn, tôm hùm 2,2 nghìn tấn; nhuyễn thể 395 nghìn tấn, đối tượng khác 233 nghìn tấn. Về cá tra, diện tích thả nuôi đạt 5.700ha, bằng với cùng kỳ năm 2021. Sản lượng đạt 1,712 triệu tấn, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2021 (1,55 triệu tấn). Về khai thác thủy sản, tổng sản lượng khai thác năm 2022 ước khoảng 3,86 triệu tấn, giảm 1,8% so với nam 2021. Trong đó, sản lượng khai thác biển 3,66 triệu tấn, giảm 2% so với năm 2021 (3,74 triệu tấn); sản lượng khai thác nội địa 0,198 triệu tấn, tăng 2,8% so với năm 2021.
Nguồn:Tiềm năng và thách thức trong nuôi trồng thủy sản trên biển