Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khai thác cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sản xuất nông nghiệp Sử dụng ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ người dân |
Theo báo cáo của Tổng cục khí tượng Thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường), quy hoạch nhằm phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á vào năm 2030; có khả năng lồng ghép, tích hợp, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia và mạng lưới trạm khí tượng thủy văn toàn cầu, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu. Đồng thời, nâng cao độ chính xác, tính kịp thời và độ tin cậy cho công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong giai đoạn 2021-2025, mạng lưới trạm khí tượng thuỷ văn được phát triển mới, nâng cấp, hiện đại hóa và bổ sung yếu tố tăng dày mật độ trạm, đặc biệt là các khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai khí tượng thủy văn, vùng trống số liệu, vùng chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, quan trắc để khu vực ven biển, đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam. Tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước; chuyển sang tự động hoàn toàn 20% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có.
Giai đoạn 2026-2030, tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm khí tượng thủy văn đạt trên 95% đối với các trạm: Khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; chuyển sang tự động hoàn toàn 30% số trạm khí tượng thủy văn thủ công hiện có. Ngành khí tượng thuỷ văn tập trung đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm, hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo khí tượng thủy văn, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu. Tiếp cận, nghiên cứu một số loại hình quan trắc mới: Trạm quan trắc trên các phương tiện di động như máy bay trinh sát khí tượng, tàu biển, vệ tinh khí tượng và viễn thám, tên lửa khí tượng, thiết bị không người lái và các công nghệ, thiết bị quan trắc hiện đại khác.
Đến năm 2050, mật độ, khoảng cách trạm quan trắc tự động khí tượng thuỷ văn ở Việt Nam sẽ ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới; đưa vào thử nghiệm trên mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia một số loại hình quan trắc mới.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khai thác cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn được nhấn mạnh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm tại Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. |
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để hiện đại hoá ngành khí tượng thuỷ văn, nhất là các trạm quan trắc trên biển; ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin… trong xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu về khí tượng thuỷ văn.
Do đó, Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 phải bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương, từ đất liền ra biển đảo, có tính toàn cầu. Ngành khí tượng thuỷ văn có mối quan hệ hết sức chặt chẽ đối với hoạt động dự báo, giám sát, cung cấp các dịch vụ thông tin, dữ liệu cho các hoạt động kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ứng phó biến đổi khí hậu, tham gia quản lý các nguồn tài nguyên (gió, nước, năng lượng mặt trời…).
Trong bối cảnh yêu cầu nhiệm vụ, tính cấp bách cao hơn, sự phát triển khoa học công nghệ nhanh hơn, Quy hoạch cần xác định thay đổi những gì để đột phá bằng công nghệ, chuyển đổi số nhằm phát triển ngành khí tượng thuỷ văn cả về số lượng lẫn chất lượng, đồng thời tối ưu hoá tổ chức bộ máy, hệ thống khoa học nhất, phù hợp, hiệu quả nhất trong điều kiện của đất nước hiện nay.
Để thực hiện được nhiệm vụ dự báo từ sớm, từ xa các hiện tượng thời tiết cực đoan và sự cố, rủi ro có thể, Phó Thủ tướng nhấn mạnh sự cần thiết của hoạt động hợp tác quốc tế trong thu thập, chia sẻ dữ liệu khí tượng thuỷ văn. Vì vậy, mạng lưới trạm khí tượng thuỷ văn là bộ phận thống nhất, đồng bộ trong quan trắc khu vực và toàn cầu; tập trung, thống nhất, khoa học trong hệ thống khí tượng thuỷ văn quốc gia.
Quy hoạch phải có tính "mở và động", phân định rõ giữa hệ thống quan trắc cơ bản, lâu dài với chuyên dụng. Mạng lưới, mật độ trạm khí tượng thuỷ văn cần được tính toán, xây dựng dựa trên cơ sở, tiêu chí khoa học; công nghệ, phương pháp thu thập số liệu quan trắc; nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra. Phó Thủ tướng cũng gợi mở, định hướng phát triển khí tượng thuỷ văn ứng dụng trong nông nghiệp, hàng không, môi trường…, mở ra không gian cho các ngành khoa học khác khai thác, sử dụng số liệu quan trắc thứ cấp, phục vụ mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội.
Trong tổ chức thực hiện Quy hoạch cần có cơ chế tài chính kết hợp nguồn lực Nhà nước và xã hội; xem xét đầu tư, khai thác, sử dụng, hiệu quả nguồn lực Nhà nước dành cho khí tượng thuỷ văn...; từng bước tự chủ trong sản xuất trang thiết bị, máy móc, làm chủ công nghệ quan trắc, bảo đảm tương thích, thống nhất trong cả hệ thống.
Nguồn:Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khai thác cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn