Hà Nội: 18°C
Thừa Thiên Huế: 20°C
Hải Phòng: 18°C
Quảng Ninh: 17°C
TP Hồ Chí Minh: 26°C

Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số diễn ra sâu rộng, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trở thành nhiệm vụ quan trọng nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế. Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần của xã hội mà còn là động lực phát triển bền vững, góp phần định hình bản lĩnh, nhân cách và năng lực sáng tạo của con người Việt Nam trong thời đại số. Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa, bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm phát huy vai trò của văn hóa như nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước.

Từ khóa: Văn hóa; hệ giá trị; con người Việt Nam; kỷ nguyên số; chuyển đổi số; phát triển bền vững.

1. Đặt vấn đề

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; đồng thời, là động lực quan trọng của phát triển bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam bước vào giai đoạn mới với nhiều cơ hội và thách thức trong việc định hình giá trị văn hóa và con người. Sự phát triển của công nghệ số không chỉ làm thay đổi phương thức sáng tạo, giao tiếp và tiếp nhận văn hóa mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc giữ gìn bản sắc dân tộc và củng cố hệ giá trị Việt Nam trong môi trường số.

Trong tiến trình hội nhập quốc tế, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam vừa kế thừa truyền thống, vừa thích ứng với thời đại trở thành nhiệm vụ chiến lược. Đây không chỉ là vấn đề văn hóa học mà còn là điều kiện để phát huy sức mạnh nội sinh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số.

2. Một số vấn đề lý luận

Trong nghiên cứu khoa học xã hội, hệ giá trị văn hóa được hiểu là tổng thể các chuẩn mực, niềm tin, lý tưởng và định hướng hành vi được xã hội thừa nhận và duy trì qua các thế hệ, qua đó, điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và giữa con người với tự nhiên. Hệ giá trị này không phải là một hệ thống tĩnh mà là một cấu trúc động, luôn biến đổi theo trình độ phát triển, nhu cầu xã hội và bối cảnh lịch sử.

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định vai trò trung tâm của văn hóa trong phát triển. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Trong đó có nêu năm phẩm chất cốt lõi của con người Việt Nam thời kỳ mới là yêu nước, nhân ái, trung thực, đoàn kết sáng tạo – những giá trị nền tảng định hướng lối sống, hành vi và bản lĩnh dân tộc trong hội nhập quốc tế1.

Tiếp nối tinh thần đó, Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị yêu cầu đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức phát triển văn hóa; hoàn thiện thể chế, chính sách, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; gắn phát triển văn hóa với phát triển con người; đồng thời, nhấn mạnh con người vừa là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, vừa là động lực của phát triển2. Tinh thần này được cụ thể hóa trong Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, trong đó khẳng định: “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số đang tạo ra cơ hội phát triển mới cho văn hóa, đồng thời đặt ra thách thức trong việc giữ gìn bản sắc và lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam” 3.

Kỷ nguyên số đã làm thay đổi sâu sắc cách con người tiếp nhận, sáng tạo và lan tỏa giá trị văn hóa. Không gian mạng trở thành môi trường văn hóa mới, nơi mỗi cá nhân vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng và truyền bá các giá trị tinh thần. Văn hóa số không chỉ là sự mở rộng của văn hóa truyền thống, mà còn là không gian hình thành những giá trị mới, như: tính sáng tạo, năng lực số, trách nhiệm cộng đồng và đạo đức thông tin.

Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra nhiều thách thức, như: nguy cơ phai nhạt giá trị truyền thống trước sự lan tỏa mạnh mẽ của văn hóa ngoại lai và lối sống tiêu dùng; sự thương mại hóa văn hóa đại chúng khiến chuẩn mực đạo đức và thẩm mỹ xã hội bị xáo trộn; khoảng cách số giữa các vùng miền, nhóm xã hội làm gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận và sáng tạo văn hóa; thiếu khung pháp lý và đạo đức số, trong khi biểu hiện lệch chuẩn, cực đoan và sai lệch thông tin vẫn phổ biến trên không gian mạng.

Những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số kết quả tích cực trong công tác phát triển và chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 405/QĐ-BVHTTDL ngày 24/02/2023 và Quyết định số 3928/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2023 về Kế hoạch chuyển đổi số. Nội dung tập trung vào ba hướng: số hóa dữ liệu di sản, xây dựng hạ tầng văn hóa số và phát triển công dân văn hóa số. Đây là những bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong quản lý, bảo tồn và quảng bá văn hóa, tạo nền tảng cho việc định hình các giá trị văn hóa Việt Nam trong không gian số.

Để thích ứng với bối cảnh đó, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số cần tập trung vào ba định hướng lớn: (1) Chuẩn hóa hệ giá trị cốt lõi của người Việt Nam hiện đại, vừa kế thừa truyền thống yêu nước, nhân ái, đoàn kết, trung thực, vừa bổ sung các giá trị mới như sáng tạo, hội nhập, trách nhiệm xã hội và năng lực số. (2) Gắn kết giữa giáo dục, văn hóa, công nghệ và truyền thông nhằm hình thành môi trường giáo dục giá trị toàn diện, trong đó thanh niên là trung tâm của quá trình sáng tạo và lan tỏa văn hóa. (3) Phát triển môi trường văn hóa số lành mạnh, coi công nghệ là công cụ phục vụ con người, khuyến khích sáng tạo và lan tỏa nhân văn.

Nhìn tổng thể, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số là nhiệm vụ mang tính chiến lược và lâu dài. Văn hóa không chỉ dừng lại ở bảo tồn truyền thống mà phải được số hóa, kết nối và quốc tế hóa, trở thành sức mạnh mềm của quốc gia trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Khi hệ giá trị văn hóa được củng cố và lan tỏa trong không gian số, con người Việt Nam sẽ vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa làm chủ công nghệ, trở thành trung tâm và động lực của phát triển đất nước trong thời đại mới.

3. Thực tiễn về xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam

Trong những năm gần đây, việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam đã trở thành một trọng tâm lớn trong chính sách phát triển văn hóa quốc gia. Các chủ trương, chiến lược và chương trình hành động của Đảng, Nhà nước đã được cụ thể hóa trong nhiều lĩnh vực, từ quản lý văn hóa, giáo dục, truyền thông, cho đến chuyển đổi số trong hoạt động sáng tạo và lan tỏa giá trị. Quá trình này đang có những chuyển biến tích cực, song cũng bộc lộ nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của thời đại số.

Thứ nhất, về thể chế và chính sách. Từ sau khi ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW đến nay, nhiều văn bản quan trọng đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021) đã khẳng định mục tiêu “xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ mới”; đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn, sáng tạo và phổ biến văn hóa. Các bộ, ngành và địa phương đã triển khai kế hoạch chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, tiêu biểu như Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành kế hoạch chuyển đổi số hằng năm.

Ở cấp địa phương, nhiều tỉnh, thành phố đã tích cực gắn chuyển đổi số với phát triển văn hóa, điển hình là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế. Hà Nội xây dựng Đề án “Phát triển công nghiệp văn hóa gắn với xây dựng Thành phố sáng tạo”, trong đó chú trọng số hóa không gian di sản và phát triển mô hình bảo tàng trực tuyến. TP. Hồ Chí Minh đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý lễ hội, xây dựng cổng dữ liệu văn hóa và hỗ trợ nghệ sĩ sáng tạo nội dung số. Những bước đi này góp phần hình thành nền tảng thể chế và hạ tầng cho việc định hình hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong môi trường số.

Thứ hai, về giáo dục và truyền thông giá trị. Giáo dục được coi là kênh quan trọng nhất trong việc hình thành hệ giá trị và nhân cách con người. Từ sau Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, các nội dung giáo dục giá trị, kỹ năng sống, năng lực số và đạo đức công dân đã được tích hợp ở nhiều cấp học. Các trường đại học, học viện cũng bắt đầu đưa các học phần về văn hóa số, truyền thông kỹ thuật số và đạo đức công nghệ vào chương trình đào tạo. Song song đó, các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội trở thành môi trường lan tỏa mạnh mẽ các giá trị tích cực, thúc đẩy tinh thần yêu nước, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm xã hội.

Tuy nhiên, sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin cũng kéo theo nhiều thách thức. Một bộ phận giới trẻ bị ảnh hưởng bởi lối sống thực dụng, lệch chuẩn giá trị; không gian mạng xuất hiện tình trạng thông tin sai lệch, bạo lực ngôn từ, và vi phạm bản quyền. Những vấn đề này đòi hỏi việc giáo dục văn hóa, đạo đức số và ý thức công dân cần được triển khai đồng bộ hơn, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

Thứ ba, về chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Quá trình chuyển đổi số đã tạo ra diện mạo mới cho lĩnh vực văn hóa tại Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Ví dụ, đến năm 2024, nhiều bảo tàng và di tích tiêu biểu, như: Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hoàng thành Thăng Long và Dinh Độc Lập đã triển khai trưng bày ảo và tham quan trực tuyến sử dụng công nghệ 3D, thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) giúp người dân và du khách tiếp cận văn hóa một cách thuận tiện và sinh động hơn4. điển hình là Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (Giải thưởng Đơn vị sự nghiệp chuyển đổi số xuất sắc cho giải pháp không gian triển lãm mỹ thuật trực tuyến VAES); Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh đã có 123 số, tương đương với 123 câu chuyện về hiện vật cung cấp nội thuyết minh tối đa 8 tiếng sau khi khách tham quan tải app và quét mã vé…

Nhiều bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh đã vươn lên trở thành điểm đến thường xuyên của các tour, tuyến du lịch, đó là Bảo tàng Quảng Ninh, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng… Đặc biệt, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh (nhiều năm liên tục dẫn đầu cả nước về số lượng khách tham quan và đã từng bình chọn trong các danh sách cấp độ quốc tế như “Bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á”, “Bảo tàng tốt nhất thế giới năm 2018”).

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Namvới kiến trúc độc đáo, công nghệ hiện đại, nội dung và hình thức trưng bày hiện đại, tiệm cận trình độ quốc tế đã lập kỷ lục đón khách tham quan lên tới 40.000 lượt/ngày – đây là con số chưa từng được ghi nhận tại bất kỳ bảo tàng nào của Việt Nam (thậm chí vượt xa lượng khách trung bình một ngày của nhiều bảo tàng đông khách nhất trên thế giới)5.

Công nghiệp văn hóa số tại Việt Nam đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ và đa dạng, bao gồm các lĩnh vực, như: phim ảnh, âm nhạc, trò chơi điện tử, quảng cáo và thiết kế sáng tạo. Các hoạt động trong ngành này không chỉ giúp mở rộng phạm vi tiếp cận của các sản phẩm văn hóa mà còn tạo ra nhiều giá trị kinh tế mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân; đồng thời, khẳng định vị thế mới của văn hóa trong nền kinh tế số.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, chuyển đổi số văn hóa ở Việt Nam vẫn còn phân tán, thiếu liên kết giữa các ngành và địa phương. Nhiều di sản chưa được số hóa hoặc thiếu cơ sở dữ liệu thống nhất; nguồn nhân lực văn hóa còn hạn chế về kỹ năng công nghệ; cơ chế quản lý và bảo hộ bản quyền trong không gian mạng chưa theo kịp thực tiễn.

Thứ tư, về phát huy giá trị văn hóa trong đời sống cộng đồng. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” hay “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tiếp tục phát huy tác dụng trong việc nuôi dưỡng các giá trị truyền thống yêu nước, nhân ái, đoàn kết, nghĩa tình. Bên cạnh đó, các mô hình văn hóa sáng tạo tại cộng đồng, như: không gian văn hóa Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc, Phú Vinh, các phố đi bộ, lễ hội dân gian tái hiện bằng công nghệ số đã mở rộng khả năng tiếp cận văn hóa cho người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.

Nhiều nghệ sĩ, doanh nghiệp và startup văn hóa đã chủ động khai thác công nghệ để quảng bá sản phẩm sáng tạo, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp văn hóa. Việc hình thành các cộng đồng sáng tạo, festival nghệ thuật đương đại, triển lãm kỹ thuật số đã góp phần tái hiện bản sắc văn hóa Việt theo ngôn ngữ hiện đại, qua đó tạo nền tảng thực tiễn sinh động cho việc định hình hệ giá trị văn hóa thời kỳ mới.

Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế sau: sự chênh lệch về năng lực tiếp cận công nghệ giữa các vùng miền, nhóm dân cư khiến quá trình chuyển đổi số văn hóa chưa đồng đều, làm gia tăng khoảng cách văn hóa số. Hiện tượng thương mại hóa, chạy theo thị hiếu trên không gian mạng có nguy cơ làm phai nhạt giá trị truyền thống và chuẩn mực đạo đức. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý, đơn vị sáng tạo và doanh nghiệp công nghệ chưa thống nhất, dẫn đến việc khai thác dữ liệu văn hóa thiếu bền vững. Chưa hình thành rõ ràng mô hình “công dân văn hóa số” những cá nhân vừa có năng lực công nghệ, vừa có trách nhiệm văn hóa và đạo đức xã hội.

4. Định hướng và giải pháp xây dựng hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong kỷ nguyên số

Từ những kết quả và hạn chế đã được phân tích trên, quá trình xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số không chỉ đòi hỏi nỗ lực thích ứng về công nghệ mà quan trọng hơn là sự định hướng rõ ràng về tư tưởng, mục tiêu và phương thức hành động. Trên cơ sở đó, cần có những định hướng sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam trên nền tảng truyền thống, hướng tới hiện đại và hội nhập. Hệ giá trị văn hóa Việt Nam cần được định hình từ những phẩm chất cốt lõi đã trở thành bản sắc dân tộc – yêu nước, nhân ái, đoàn kết, trung thực, sáng tạo và trách nhiệm; đồng thời, bổ sung các giá trị mới của thời đại số, như: năng lực số, tư duy phản biện, tôn trọng đa dạng văn hóa và tinh thần đổi mới sáng tạo. Việc kết hợp giữa “cội nguồn văn hóa truyền thống” và “năng lực công dân toàn cầu” là yêu cầu tất yếu của quá trình hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, đặt con người ở vị trí trung tâm của phát triển văn hóa số. Con người không chỉ là chủ thể sáng tạo mà còn là người gìn giữ, truyền bá và thực hành giá trị văn hóa trong không gian mạng. Việc xây dựng hình mẫu “công dân văn hóa số Việt Nam” – người có năng lực công nghệ, bản lĩnh văn hóa và trách nhiệm xã hội cần được xem là định hướng xuyên suốt của các chiến lược phát triển văn hóa, giáo dục và truyền thông quốc gia.

Thứ ba, phát huy vai trò của văn hóa như trụ cột tinh thần và nguồn lực nội sinh cho phát triển bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa không chỉ là lĩnh vực xã hội mà còn là sức mạnh mềm, góp phần định hình năng lực cạnh tranh quốc gia. Định hướng xây dựng văn hóa trong kỷ nguyên số phải gắn liền với phát triển công nghiệp văn hóa, kinh tế sáng tạo, ngoại giao văn hóa và thương hiệu quốc gia.

Thứ tư, tăng cường liên kết giữa Nhà nước – doanh nghiệp – cộng đồng trong phát triển văn hóa số. Nhà nước giữ vai trò định hướng, doanh nghiệp là lực lượng sáng tạo và đầu tư công nghệ, còn cộng đồng là chủ thể tiếp nhận, lan tỏa và thực hành giá trị. Mối liên kết này bảo đảm cho hệ giá trị văn hóa được hiện thực hóa trong đời sống một cách tự nhiên, bền vững và phù hợp với quy luật phát triển xã hội số.

Để triển khai các định hướng trên, cần có các giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển văn hóa trong môi trường số.

Cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển văn hóa số quốc gia; ban hành khung pháp lý về quản lý nội dung trên không gian mạng, bản quyền số, dữ liệu văn hóa mở và quyền tiếp cận bình đẳng của công dân. Song song đó, hoàn thiện các quy tắc ứng xử văn hóa trên môi trường mạng, tăng cường năng lực quản trị và phối hợp liên ngành giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các địa phương.

Hai là, đổi mới giáo dục giá trị và đào tạo con người trong kỷ nguyên số.

Giáo dục cần chuyển từ truyền đạt tri thức sang bồi dưỡng năng lực văn hóa, đạo đức và kỹ năng số. Cần tích hợp nội dung về “văn hóa số”, “đạo đức công nghệ”, “trách nhiệm thông tin” vào chương trình học các cấp. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của gia đình, nhà trường, tổ chức đoàn thể trong việc giáo dục giá trị, định hướng hành vi văn minh trên không gian mạng.

Ba là, phát triển môi trường văn hóa số lành mạnh, nhân văn và an toàn.

Cần xây dựng cơ chế khuyến khích sáng tạo nội dung văn hóa tích cực; đồng thời kiểm soát và xử lý nghiêm hành vi xuyên tạc, bạo lực ngôn từ, vi phạm bản quyền hoặc kích động phản văn hóa. Các nền tảng mạng xã hội và cơ quan báo chí cần trở thành lực lượng nòng cốt trong việc lan tỏa thông tin đúng đắn, dẫn dắt dư luận và quảng bá hình ảnh Việt Nam văn minh, hiện đại.

Bốn là, phát triển hệ sinh thái văn hóa số quốc gia. Hệ sinh thái này bao gồm: cơ sở dữ liệu văn hóa số hóa, nền tảng sáng tạo nội dung, công nghiệp văn hóa số và mạng lưới công dân văn hóa số. Cần đẩy mạnh số hóa di sản, thư viện, bảo tàng, nghệ thuật biểu diễn, đồng thời ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR/AR) trong quảng bá và giáo dục văn hóa. Phát triển các trung tâm sáng tạo văn hóa số, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp sáng tạo, kết nối giữa văn hóa – công nghệ – du lịch – giáo dục.

Năm là, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ nhân lực văn hóa có năng lực số.

Đây là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi số văn hóa thành công. Cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý văn hóa, nghệ sĩ, trí thức, chuyên gia công nghệ và nhà sáng tạo nội dung, giúp họ làm chủ công cụ số, dữ liệu văn hóa và nền tảng truyền thông mới. Đồng thời, khuyến khích các chương trình liên kết giữa Nhà nước – doanh nghiệp – trường đại học để đào tạo nhân lực văn hóa – công nghệ đa ngành.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế và ngoại giao văn hóa số. Việt Nam cần chủ động tham gia các chương trình hợp tác văn hóa – công nghệ trong khu vực ASEAN và thế giới; quảng bá tiếng Việt, di sản, nghệ thuật, ẩm thực, thời trang và các giá trị sáng tạo Việt Nam ra toàn cầu thông qua các nền tảng kỹ thuật số. Cùng với đó, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, thúc đẩy sáng tạo liên văn hóa, hình thành bản sắc “Việt Nam hiện đại – nhân văn – sáng tạo” trong không gian số quốc tế.

5. Kết luận

Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số là nhiệm vụ chiến lược nhằm củng cố nền tảng tinh thần và tạo sức mạnh nội sinh cho phát triển đất nước. Văn hóa không chỉ là di sản của quá khứ mà còn là định hướng cho tương lai, giúp con người Việt Nam thích ứng với biến đổi của thời đại mà vẫn giữ vững bản sắc dân tộc. Thực tiễn chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa cho thấy, Việt Nam đang từng bước hình thành nền tảng cho một xã hội văn hóa số. Tuy nhiên, sự chênh lệch về năng lực công nghệ, nguy cơ phai nhạt giá trị truyền thống và thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ vẫn là những thách thức lớn cần vượt qua. Trong bối cảnh đó, cần tiếp tục phát huy các giá trị cốt lõi của dân tộc – yêu nước, nhân ái, đoàn kết, trung thực, sáng tạo và trách nhiệm; đồng thời, bồi dưỡng những phẩm chất mới của thời đại số, như: năng lực số, tư duy phản biện và tinh thần đổi mới. Khi mỗi cá nhân, tổ chức và cộng đồng đều trở thành chủ thể sáng tạo và lan tỏa giá trị văn hóa, sức mạnh tinh thần của dân tộc sẽ được nhân lên trong không gian số. Văn hóa chính là năng lượng tinh thần của một Việt Nam sáng tạo, hội nhập và bền vững trong kỷ nguyên số.

Chú thích:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2014). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

2. Ban Bí thư (2020). Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

3. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12/11/2021 về Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030.

4. Thúc đẩy hợp tác phát triển Văn hóa số Việt Nam giai đoạn 2025-2027. https://bvhttdl.gov.vn/thuc-day-hop-tac-phat-trien-van-hoa-so-viet-nam-giai-doan-2025-2027-20251104125523391.htm

5. Dấu ấn di sản văn hóa năm 2024, nhiệm vụ, giải pháp năm 2025. https://bvhttdl.gov.vn/dau-an-di-san-van-hoa-nam-2024-nhiem-vu-giai-phap-nam-2025-20241226140127504.htm

Nguồn: Xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong kỷ nguyên số

TS. Lê Thị Thu Phượng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Thị trường chứng khoán ngày 15/12: Dòng tiền thận trọng, VN Index “hụt hơi”

Thị trường chứng khoán ngày 15/12: Dòng tiền thận trọng, VN Index “hụt hơi”
Dù có lúc bứt phá hơn 18 điểm trong phiên sáng, VN Index lại “hụt hơi” vào buổi chiều và đóng cửa quanh tham chiếu với mẫu nến Doji lưỡng lự. Thanh khoản rơi xuống dưới 19 nghìn tỷ đồng, dòng tiền thận trọng, chỉ còn một vài nhóm như dầu khí, chứng khoán và midcaps le lói tín hiệu hồi phục.

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 16/12/2025: Tuổi Thìn khá lộc lá, tuổi Tỵ nên cẩn thận

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 16/12/2025: Tuổi Thìn khá lộc lá, tuổi Tỵ nên cẩn thận
Những bí ẩn của khoa học đời sống là "món ăn" tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Tử vi vòng quay công nghệ xem tử vi 12 con giáp ngày 16/12/2025 cho tất cả các tuổi nhằm dự đoán vận hạn về công danh, tiền bạc, tình duyên, sức khỏe...

Lào Cai đoạt 3 giải tại Cuộc thi “Cùng Đức Việt và O"Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm”

Lào Cai đoạt 3 giải tại Cuộc thi “Cùng Đức Việt và O"Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm”
Trong hai ngày (13 - 14/12), tại Thủ đô Hà Nội, vòng chung kết toàn quốc Cuộc thi Nghệ thuật “Cùng Đức Việt & O’Food thắp sáng những Ngôi sao buổi sớm” lần thứ XI đã diễn ra sôi nổi, giàu cảm xúc, quy tụ hàng trăm tài năng nghệ thuật nhí đến từ nhiều tỉnh, thành trên cả nước.

Cần Thơ phát triển hệ thống quan trắc, cảnh báo ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản

Cần Thơ phát triển hệ thống quan trắc, cảnh báo ô nhiễm trong nuôi trồng thủy sản
TP. Cần Thơ sẽ đầu tư hệ thống quan trắc tự động và trung tâm cảnh báo sớm tích hợp toàn thành phố, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và viễn thám để phát hiện sớm ô nhiễm, dịch bệnh hoặc biến động diện tích nuôi trồng thủy sản.

Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế biển xanh

Đề xuất giải pháp phát triển kinh tế biển xanh
Một trong những giải pháp được chuyên gia đề xuất là phát triển mạnh hạ tầng, đặc biệt là cảng cửa ngõ quốc tế, logistics đa phương thức; đồng thời quản lý chặt các dự án lấn biển. Đồng thời, phát triển mạnh mẽ các cụm công nghiệp nuôi biển, như là giải pháp đột phá đưa nuôi biển Việt Nam thoát khỏi tình trạng thủ công, manh mún và tiến tới sản xuất quy mô lớn.