Hà Nội: 19°C
Thừa Thiên Huế: 18°C
TP Hồ Chí Minh: 32°C
Quảng Ninh: 14°C
Hải Phòng: 18°C

Xây dựng nền tư pháp số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra rộng khắp, hoạt động cải cách tư pháp ở Việt Nam cũng cần đặt trong bối cảnh mới nhằm hướng đến xây dựng một nền tư pháp số hiện đại, chuyên nghiệp. Trên cơ sở nhận diện một số vấn đề lý luận về tư pháp số, khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển đổi số trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, bài viết đưa ra một số khuyến nghị cho việc xây dựng một nền tư pháp số ở nước ta trong thời gian tới.
Quản lý công chức dựa trên năng lực - thực trạng và giải pháp “Rác thải nhựa trong Thương mại điện tử”: Thực trạng và giải pháp

Từ khóa: Tư pháp số, chuyển đổi số, cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang diễn ra rộng khắp trên thế giới, chuyển đổi số quốc gia được xác định là một xu thế tất yếu. Quá trình chuyển đổi số quốc gia được triển khai ở nhiều cấp độ, phương diện, bao hàm cả khu vực tư và khu vực công cũng như trong toàn xã hội. Ở khu vực công, chuyển đổi số nhằm hướng đến việc chuyển đổi hoạt động của các cơ quan nhà nước lên môi trường số, qua đó có thể cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt hơn cho người dân. Đây được xem là quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ số – một trong ba trụ cột của chuyển đổi số ở cấp quốc gia (Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số).

Hiện nay, quá trình số hóa diễn ra khá mạnh mẽ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, song Chính phủ số không chỉ giới hạn trong phạm vi hệ thống cơ quan hành chính mà còn bao hàm cả hệ thống cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp và các cơ quan nhà nước khác từ trung ương đến địa phương. Chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp hay còn gọi là “tư pháp số” là một phương diện quan trọng trong xây dựng và phát triển Chính phủ số, song cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, việc tiếp cận vấn đề “tư pháp số” về phương diện lý luận và thực tiễn thật sự cần thiết. Đây chính là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực tư pháp nói riêng và trong khu vực công nói chung.

2. Khái lược về tư pháp số

Cho đến nay, chưa có một định nghĩa duy nhất được công nhận về “tư pháp số” (digital justice), đồng thời cũng chưa có nhiều nghiên cứu đưa ra quan điểm về khái niệm này. Song trên cơ sở các khái niệm về chuyển đổi số, Chính phủ số và hoạt động tư pháp, có thể khái quát “tư pháp số” là quá trình chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp, là một trong các phương diện trong quá trình xây dựng Chính phủ số. Theo quan điểm của Bộ Thông tin và Truyền thông, khái niệm Chính phủ số được định nghĩa như sau: Chính phủ số là chính phủ có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế – xã hội1.

Một trong các hoạt động cơ bản để quản lý xã hội của Nhà nước chính là hoạt động tư pháp. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ số, việc chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp – đưa hoạt động tư pháp lên môi trường số, dựa trên dữ liệu và công nghệ số một cách an toàn, hiệu quả là yêu cầu tất yếu.

Mặc dù hiện nay, vẫn còn một số quan điểm khác nhau về hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp tại Việt Nam, song theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới thì hoạt động tư pháp bao gồm cả hoạt động xét xử của tòa án, hoạt động của viện kiểm sát, của cơ quan điều tra và cơ quan thi hành án. Dưới góc độ tiếp cận này, có thể hiểu “Tư pháp số là quá trình chuyển đổi các hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án và cơ quan thi hành án lên môi trường số nhằm xây dựng một hệ thống tư pháp hiện đại, chuyên nghiệp, minh bạch, tăng cường khả năng thực thi quyền tiếp cận công lý của người dân”.

Tư pháp số về bản chất vẫn là hoạt động tư pháp, chính vì vậy cũng phản ánh những đặc điểm, mục tiêu chung của hoạt động tư pháp. Cụ thể là tư pháp số cũng hướng đến bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật… Bên cạnh những phương diện thể hiện bản chất của hoạt động tư pháp, tư pháp số cũng phản ánh một số điểm khác biệt, tiên tiến so với hoạt động tư pháp truyền thống, cụ thể như sau:

Thứ nhất, tư pháp số là hoạt động tư pháp được thực thi trên nền tảng công nghệ số. Công nghệ số ở đây được hiểu là công nghệ thông tin hay mạng Internet, cung cấp nền tảng trực tuyến cho các hoạt động tố tụng cũng như hoạt động cung cấp thông tin pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật. Nền tảng trực tuyến là nơi để các cơ quan tư pháp tiến hành hoạt động tố tụng, chia sẻ, lưu trữ, quản lý thông tin, tài liệu phục vụ cho quá trình này. Nền tảng trực tuyến cũng là nơi để tổ chức, cá nhân tra cứu, tìm hiểu các quy định pháp luật và có thể tham gia vào các hoạt động tố tụng có liên quan ở mọi nơi, mọi lúc, trên mọi thiết bị…Tư pháp số không chỉ đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong từng hoạt động tư pháp riêng lẻ mà là thiết lập được một nền tảng chung mang tính hệ thống, liên kết được hoạt động của các cơ quan tư pháp từ cơ quan điều tra cho đến cơ quan công tố, cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án.

Thứ hai, tư pháp số là hoạt động tư pháp mang tính hiện đại, chuyên nghiệp. Điều này được thể hiện qua việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật và công nghệ tiên tiến xuyên suốt quá trình tố tụng. Các nền tảng công nghệ tiên tiến như thiết bị đa phổ phát hiện và ghi nhận dấu vết không tiếp xúc, hệ thống quét hiện trường 3D, thiết bị bay không người lái (UAV-Drone), Zoom, Skype, Gmail, Google Driver… đã góp phần hỗ trợ các hoạt động tố tụng được thực hiện nhanh chóng, linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm tính pháp lý, chính xác, minh bạch, công bằng.

Thứ ba, tư pháp số khuyến khích sự tham gia nhiều hơn của người dân trong hoạt động tố tụng. Khi hoạt động tư pháp chỉ được thực hiện theo phương thức truyền thống thì người dân muốn khởi kiện phải trực tiếp đến cơ quan Toà án để thực hiện các thủ tục pháp lý. Các rào cản về khoảng cách địa lý, thời gian, chi phí…cũng phần nào tạo nên tâm lý e ngại cho người dân trong việc tiếp cận với các cơ quan tố tụng khi quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Khi xây dựng nền tư pháp số, các rào cản này phần nào được khắc phục. Người dân có thể khởi kiện, cung cấp chứng cứ, tham gia phiên xét xử bằng hình thức trực tuyến, qua đó, có thể tiết kiệm thời gian, chí phí, từ đó thúc đẩy họ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tố tụng.

Tư pháp số cũng tạo điều kiện cho những đối tượng yếu thế trong xã hội như những người già, người khuyết tật…thực thi được các quyền liên quan đến hoạt động tố tụng, đặc biệt là quyền tiếp cận công lý. Bên cạnh đó, với nguồn thông tin mở, công khai trong hoạt động tư pháp, người dân cũng có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu các thông tin pháp lý, được giải đáp nhanh chóng, chính xác các vấn đề pháp lý thông qua phần mềm trợ lý ảo của hệ thống cơ quan tư pháp.

Thứ tư, các hoạt động tố tụng trong tư pháp số luôn cần có sự kết hợp giữa phương thức trực tuyến và trực tiếp. Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ số đem lại nhiều thuận lợi trong hoạt động tư pháp, không chỉ đối với các cơ quan tố tụng mà còn đối với người dân. Tuy nhiên, đặc thù của các vụ việc được giải quyết bằng con đường tư pháp vốn chứa đựng nhiều tình tiết phức tạp cần được xem xét, cân nhắc trước khi ra quyết định. Việc xem xét các tình tiết này chỉ có thể được thực hiện bởi con người; các phần mềm, công nghệ không thể thay con người để có thể đưa ra phán quyết bảo đảm được cả tính hợp lý, hợp tình. Việc chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp trong tương lai cũng không thể sử dụng các phần mềm, công nghệ để thay thế hoàn toàn cho hoạt động của con người. Lĩnh vực này có một số điểm khác biệt so với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, cung cấp dịch vụ công – có thể tiếp nhận, xử lý và trả kết quả dựa trên các thuật toán đã được thiết lập sẵn trên phần mềm.

Thứ năm, tư pháp số có tính rủi ro. Tư pháp số là hoạt động tư pháp được thực hiện trên môi trường trực tuyến, vì vậy nó cũng tiềm ẩn một số rủi ro nhất định về mặt công nghệ. Rủi ro đầu tiên có thể kể đến đó là rủi ro về việc bảo mật thông tin ở một số giai đoạn trong quá trình tố tụng như điều tra, truy tố hoặc trong quá trình giải quyết các vụ án cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự. Rủi ro này có thể xuất phát từ lỗi kỹ thuật của nền tảng công nghệ hoặc từ sự tấn công của các tội phạm mạng. Một rủi ro nữa cũng cần được cân nhắc đến là việc các bên lợi dụng các yếu tố khách quan về công nghệ như chất lượng đường truyền, âm thanh, hình ảnh… để gây khó khăn hoặc có sự gian dối trong hoạt động cung cấp chứng cứ điện tử cũng như trong quá trình xét xử hay thi hành án.

3. Chuyển đổi sang tư pháp số ở Việt Nam và một số đề xuất, khuyến nghị

Hiện nay, tại Việt Nam, thuật ngữ “tư pháp số” chưa được đề cập trực tiếp trong các văn bản của Đảng và Nhà nước, song tiến trình xây dựng, chuyển đổi sang tư pháp số cũng được thể hiện ở một số nội dung có liên quan. Chẳng hạn như, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII), một trong những nhiệm vụ, giải pháp cải cách tư pháp được đề cập đến là “xây dựng Tòa án điện tử”2. Tuy nhiên, nội dung này chỉ mới đề cập đến một trong các phương diện để hướng đến xây dựng nền tư pháp số và chỉ mới giới hạn trong hoạt động xét xử của tòa án.

Một trong các văn bản đề cập trực tiếp định hướng chuyển đổi số quốc gia ở nước ta hiện nay là Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Tuy nhiên, các nội dung về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển Chính phủ số chỉ đề cập đến các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, hoạt động của Chính phủ chưa đề cập đến nội dung chuyển đổi số trong lĩnh vực tư pháp. Trong khi đó, công cuộc chuyển đổi số quốc gia ở khu vực công không chỉ giới hạn trong hoạt động của Chính phủ, của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước mà cần được tiếp cận dưới góc độ là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó bao gồm cả lĩnh vực tư pháp. Như vậy, có thể thấy, nội dung Chương trình chuyển đổi số quốc gia được phê duyệt tại Quyết định này chưa thể hiện đầy đủ, bao quát tất cả các lĩnh vực nhằm tiến tới xây dựng Chính phủ số tại Việt Nam.

Mặc dù việc xây dựng, phát triển tư pháp số chưa được đề cập trực tiếp trong chủ trương chung của Đảng hay trong Chương trình chuyển đổi số quốc gia nhưng hiện nay, việc chuyển đổi số cũng đã được đề cập và triển khai ở từng hệ thống cơ quan trong lĩnh vực tư pháp.

Đối với hoạt động của tòa án nhân dân, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xét xử bước đầu đã được triển khai trên thực tế. Cụ thể, ngày 12/11/2021, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 33/2021/QH15 về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Sau đó, vào ngày 15/12/2021, tại Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP giữa Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến cũng được ban hành. Theo Nghị quyết số 33/2021/QH15, phiên tòa trực tuyến được xác định như sau: Phiên tòa trực tuyến là phiên tòa được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài phòng xử án do Tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm3.

Tuy nhiên, các phiên tòa trực tuyến chỉ được áp dụng đối với những vụ án có tình tiết, tính chất đơn giản, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án rõ ràng. Sự ra đời của các phiên tòa trực tuyến trong thời gian qua nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử trong bối cảnh đại dịch Covid-19 khi đại dịch khiến cho việc xét xử tại Tòa án bị chậm trễ, đình trệ. Như vậy, có thể xem phiên tòa trực tuyến là một trong những bước khởi đầu cho công cuộc chuyển đổi số ngành Tòa án hiện nay. Trước đó, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã ký kết Chương trình phối hợp trong công tác chuyển đổi số và xây dựng Tòa án điện tử đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp4.

Ngoài ra, chủ trương xây dựng Tòa án điện tử cũng được Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 27-NQ/TW. Trên cơ sở đó, trong thời gian qua, ngành Tòa án đã triển khai và đạt được một số kết quả nhất định trong công tác chuyển đổi số và xây dựng Tòa án điện tử. Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai hệ thống truyền hình trực tuyến với quy mô hơn 800 điểm cầu kết nối đến các Tòa án trong cả nước, trung bình phục vụ hơn 3.700 phiên họp trực tuyến trong một năm. Ngoài ra, đã triển khai xây dựng Cổng Thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao và Trang Thông tin điện tử của Tòa án nhân dân cấp cao, cấp tỉnh nhằm cung cấp thông tin về hoạt động của các tòa án, lịch xét xử các vụ án, công khai các bản án, quyết định của Tòa án để phục vụ nhu cầu tra cứu của người dân, cơ quan, tổ chức.

Cho đến nay đã có hơn 1,3 triệu bản án, quyết định được công bố với hơn 170 triệu lượt truy cập, trung bình hằng ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập. Bên cạnh đó, dựa trên phần mềm công nghệ, Tòa án nhân dân đã tiến hành kết nối với Cổng Thông tin điện tử quốc gia để cung cấp dịch vụ công trực tuyến, như: đăng ký trực tuyến cấp sao bản án, tài liệu trong hồ sơ vụ án; gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án bằng phương tiện điện tử; thu, nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án, qua đó giúp người dân tiết kiệm công sức, thời gian, chi phí và phòng chống nhũng nhiễu, tiêu cực. Đặc biệt, phần mềm Trợ lý ảo đã được thiết lập nhằm hỗ trợ công tác xét xử cho các thẩm phán trong việc tra cứu các văn bản pháp luật; quản trị công việc; soạn thảo một số văn bản tố tụng, rà soát lỗi chính tả và kỹ thuật văn bản; số hóa, lưu trữ và chia sẻ nguồn tài nguyên tri thức từ kinh nghiệm xét xử của các thẩm phán, từ đó hướng tới tư vấn đường lối xử lý vụ việc và cung cấp dịch vụ Đoán định tư pháp5. Ngoài ra, để làm giàu tri thức cho Trợ lý ảo, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cũng đã yêu cầu “100% thẩm phán phải sử dụng, tương tác và đóng góp ít nhất 01 câu hỏi và câu trả lời cho phần mềm Trợ lý ảo” tại Chỉ thị số 01/2023/CT-CA ngày 03/01/2023 về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Tòa án năm 20236.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công cuộc chuyển đổi số trong hoạt động xét xử, xây dựng Tòa án điện tử cũng còn tồn tại một số bất cập, hạn chế nhất định. Cụ thể như: hạ tầng kỹ thuật tại các Tòa án nhân dân còn thiếu và lạc hậu; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan tư pháp còn hạn chế; tình trạng “cát cứ thông tin”, “co cụm dữ liệu” tại một số Tòa án vẫn còn tồn tại; tỷ lệ sử dụng dịch vụ tư pháp công trực tuyến và tỷ lệ xử lý hồ sơ trực tuyến còn thấp7

Để khắc phục tình trạng này và đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Tòa án điện tử, trong thời gian gần đây, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có những chỉ đạo quyết liệt tại Chỉ thị số 02/CT-CA ngày 15/01/2024. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân đã được thành lập và kiện toàn theo Quyết định số 97/QĐ-VKSTC ngày 23/3/2023 và Quyết định số 390/QĐ-VKSTC ngày 30/10/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao8. Trước đó, ngày 02/12/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành Quyết định số 359/QĐ-VKSTC phê duyệt “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Mục tiêu tổng quát chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân cũng đã được thể hiện rõ nét ở Quyết định này, cụ thể là: khẩn trương chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin của ngành thành hạ tầng số thống nhất, ổn định, linh hoạt hướng tới điện toán đám mây; phát triển ứng dụng, dịch vụ mới theo hướng sử dụng chung hạ tầng số, nền tảng số và các dịch vụ công nghệ thông tin sẵn có. Có khả năng sử dụng dữ liệu số và các công cụ phân tích thông minh để phục vụ có hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành và các hoạt động nghiệp vụ kiểm sát, đáp ứng các yêu cầu kết nối, chia sẻ tài nguyên thông tin, dữ liệu trong và ngoài Ngành. Đến năm 2030, cơ bản chuyển các hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân lên môi trường số; thay đổi cách thức vận hành, môi trường làm việc và công cụ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành theo hướng chuyển đổi số9. Đồng thời, Quyết định số 359/QĐ-VKSTC cũng xác định mục tiêu cụ thể cũng như những nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến việc phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Có thể nói, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát.

Trên thực tế, ngành Kiểm sát đã triển khai ứng dụng một số phần mềm trong hoạt động của ngành, như: hệ thống quản lý văn bản và điều hành; hệ thống truyền hình hội nghị; ứng dụng số hóa bước đầu tài liệu, hồ sơ vụ án, phục vụ báo cáo án, trình chiếu tại phiên tòa và lưu trữ hồ sơ; ứng dụng vẽ sơ đồ vụ án hình sự… Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát bước đầu đã đem lại một số kết quả tích cực trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ của ngành. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế, như: chưa có sự kết nối liên thông về dữ liệu giữa các ngành; hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ; các phần mềm liên quan đến quy trình nghiệp vụ phức tạp, hiệu quả chưa cao…10.

Một trong những hoạt động quan trọng trong quy trình tố tụng tư pháp là hoạt động tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố; điều tra, xử lý tội phạm và thi hành án hình sự của cơ quan Công an nhân dân. Trong xu thế chung của việc phát triển và ứng dụng công nghệ số, cơ quan Cảnh sát điều tra thuộc Công an nhân dân trong thời gian qua cũng đã sử dụng một số phần mềm hỗ trợ cho việc thực hiện một số hoạt động của ngành. Chẳng hạn, như: thiết bị đa phổ phát hiện và ghi nhận dấu vết không tiếp xúc; hệ thống quét hiện trường 3D; thiết bị bay không người lái (UAV-Drone); hệ thống thiết bị biên tập, phân tích video, hình ảnh, âm thanh tại hiện trường… Các thiết bị này đều có khả năng kết nối Internet để truyền dẫn dữ liệu, có phần mềm chuyên dụng để xử lý dữ liệu11.

Như vậy, trong hoạt động điều tra, phòng chống tội phạm, lực lượng cảnh sát bước đầu cũng đã có những ứng dụng công nghệ hiện đại góp phần thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động của lực lượng Công an nhân dân nói chung. Một trong những điểm nhấn trong hoạt động chuyển đổi số của lực lượng Công an trong thời gian qua là việc triển khai thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2023 được phê duyệt tại Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Bộ Công an đã cấp trên 83,76 triệu thẻ căn cước công dân gắn chíp; thu nhận trên 61,3 triệu hồ sơ định danh điện tử, kích hoạt trên 39,3 triệu tài khoản. Về số hóa tạo lập dữ liệu dùng chung, Bộ Công an đã kết nối với 15 bộ, ngành, 1 doanh nghiệp nhà nước (EVN), 3 doanh nghiệp viễn thông và 63 địa phương, tiếp nhận tổng số gần 1,2 triệu yêu cầu tra cứu, xác thực thông tin. Đối với việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến của ngành Công an, Bộ Công an đã hoàn thành cung cấp 224/224 dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền trên Cổng Dịch vụ công Bộ Công an12

Việc triển khai Đề án này hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng điều tra, phòng chống tội phạm của lực lượng cảnh sát, song cơ bản vẫn thiên về chức năng quản lý nhà nước hơn là chức năng của lực lượng công an trong hoạt động tư pháp. Hiện nay, trong ngành Công an, chưa có văn bản nào thể hiện trực tiếp chủ trương, kế hoạch chuyển đổi số trong công tác điều tra, phòng, chống tội phạm theo phương diện là một giai đoạn trong quy trình tố tụng tư pháp. Chính vì vậy, việc ứng dụng công nghệ, phần mềm trong việc thực hiện chức năng này của lực lượng cảnh sát tuy đã được triển khai trên thực tế song chưa thể hiện được sự kết nối với tiến trình chuyển đổi số chung trong lĩnh vực tư pháp.

Trong quy trình tố tụng tư pháp, thi hành án là giai đoạn cuối cùng cũng là giai đoạn quan trọng trong hoạt động tư pháp. Đối với hoạt động thi hành án hình sự, như đã phân tích ở trên, Bộ Công an đã triển khai một số giải pháp chuyển đổi số trong ngành, song các giải pháp thiên về hoạt động tư pháp thì chưa được xác định thành các chiến lược, đề án cụ thể. Đối với hoạt động thi hành án dân sự, trong thời gian vừa qua, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 639/QĐ-BTP ngày 27/4/2021 phê duyệt Đề án “Ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số và bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự giai đoạn 2021-2025”. Trên cơ sở xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, Đề án đã xác định các giải pháp để có thể thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động thi hành án dân sự. Cụ thể là: xây dựng hệ thống thông tin trong thi hành án dân sự; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; bảo đảm vận hành, an ninh, an toàn các hệ thống thông tin thi hành án dân sự. Đây chính là cơ sở cho việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương.

Có thể thấy, trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã và đang triển khai các biện pháp, kế hoạch chuyển đổi số trong hoạt động của ngành mình với những mức độ, phương diện khác nhau. Tuy nhiên, việc triển khai chuyển đổi số trong ngành Tư pháp vẫn chưa thể hiện được tính tổng thể, chưa có sự kết nối, liên thông, xuyên suốt trong hoạt động của các cơ quan. Đây cũng là một trong các vấn đề cốt lõi cần được xem xét trong thời gian đến để có thể xây dựng được một nền tư pháp số hoàn chỉnh, hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xu hướng chuyển đổi số chung của thế giới.

3. Một số đề xuất, khuyến nghị

Thứ nhất, cần bổ sung cơ sở lý luận cho việc xây dựng và phát triển “tư pháp số”. Cần xác định thống nhất nội hàm khái niệm “tư pháp số” không chỉ giới hạn ở hoạt động xây dựng tòa án điện tử mà bao hàm quá trình chuyển đổi số đồng bộ trong tất cả các hoạt động tư pháp cũng như trợ giúp pháp lý. Ngoài ra, cần xác định vị trí, vai trò của “tư pháp số” trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia nói chung và trong quá trình chuyển đổi số khu vực công nói riêng. Chuyển đổi số trong khu vực công không chỉ giới hạn ở phạm vi chuyển đổi số trong hoạt động hành chính nhà nước mà cần hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, bao hàm cả hoạt động lập pháp và tư pháp.

Thứ hai, cần xây dựng chiến lược hoặc kế hoạch chuyển đổi số quốc gia tổng thể, trong đó cần xác định rõ hơn các mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp chuyển đổi số không chỉ trong hoạt động quản lý hành chính mà còn trong cả hoạt động lập pháp và hoạt động tư pháp. Riêng trong lĩnh vực tư pháp cũng cần xây dựng chiến lược tổng thể nhằm xây dựng, phát triển nền tư pháp số, tạo cơ sở cho việc triển khai đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt quá trình này. Hiện nay, mỗi cơ quan tư pháp, như: tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án đều đã và đang triển khai ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, các hoạt động này còn mang tính rời rạc, đơn lẻ. Chính vì vậy, việc xác định chiến lược, kế hoạch tổng thể chuyển đổi số trong hoạt động tư pháp có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công trong việc xây dựng một nền tư pháp số chuyên nghiệp, hiện đại.

Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến tư pháp số.Đây chính là cơ sở pháp lý cho việc triển khai đồng bộ, xuyên suốt các giai đoạn trong quy trình tố tụng trên môi trường số; đồng thời phòng ngừa, khắc phục những rủi ro có thể gặp phải trong việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật số trong hoạt động tư pháp. Cụ thể, cần hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến chứng cứ điện tử; chữ ký điện tử; đăng tải, mã hóa dữ liệu; sử dụng, quản lý, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan tư pháp và giữa cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính; quy định về giá trị pháp lý của các quyết định, bản án điện tử và các tài liệu điện tử khác; quy định về chế tài đối với những vi phạm liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng, bảo mật thông tin điện tử trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, cần ban hành những quy định cụ thể về việc xác định loại vụ án, vụ việc nào sẽ được giải quyết trực tuyến. Việc quy định này cần được thực hiện theo lộ trình, phù hợp với tính chất vụ việc, trình độ, kỹ năng đội ngũ nguồn nhân lực cũng như sự phát triển của công nghệ theo từng giai đoạn.

Thứ tư, thiết lập và triển khai đồng bộ hệ thống dịch vụ công trực tuyến tại các cơ quan tư pháp, như nộp, nhận và phản hồi về đơn khởi kiện, tố cáo; cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc giải quyết; nộp án phí, lệ phí trực tuyến; cấp, tống đạt các văn bản, giấy tờ của cơ quan tư pháp đến các đương sự… Đồng thời, việc ứng dụng phần mềm tố tụng trực tuyến không chỉ giúp các cơ quan tư pháp mà còn giúp người dân nắm bắt được tiến độ xử lý vụ việc cụ thể trong quy trình tố tụng. Ngoài ra, cần chú trọng xây dựng phần mềm cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý cho người dân trên Cổng thông tin điện tử của các cơ quan tư pháp, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận, tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan để có thể chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Thứ năm, thiết lập hệ thống phần mềm trực tuyến, kết nối thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính nhà nước, đặc biệt là dữ liệu công dân và quản lý dân cư. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu như vậy sẽ góp phần hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tư pháp như điều tra, xác minh, liên lạc với các đối tượng có liên quan đến vụ việc cụ thể; đồng thời cũng hỗ trợ cho các cơ quan hành chính quản lý dân cư trên địa bàn nắm bắt kịp thời, sâu sát thông tin của các đối tượng đã hoặc đang có liên quan đến hoạt động tố tụng như người có tiền án, tiền sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự… Việc kết nối thông tin, phối hợp giữa các hệ thống cơ quan thông qua phần mềm trực tuyến như vậy sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp nói riêng và hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung.

Thứ sáu, cần nâng cao năng lực, kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức ngành tư pháp. Trong tương lai, khi các hoạt động tư pháp được số hóa ngày càng nhiều, hoạt động tư pháp diễn ra trên môi trường số ngày càng phổ biến thì nguồn nhân lực tại các cơ quan tư pháp cần thành thạo các kỹ năng này mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc trong bối cảnh mới. Chính vì vậy, cần tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sử dụng phần mềm cho cán bộ, công chức tại các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án. Bên cạnh đó, trong các chương trình đào tạo ngành luật và nghề luật hiện nay, cần bổ sung thêm các học phần liên quan đến kỹ năng tin học, công nghệ thông tin ứng dụng trong quá trình thực hành nghề nghiệp.

Thứ bảy, cần nâng cao năng lực số cho người dân. Song song với việc thiết lập các phần mềm, ứng dụng số trong hoạt động tư pháp; xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật về tư pháp số, cần chú trọng hoạt động tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn kỹ năng sử dụng các phần mềm cho người dân khi tham gia các hoạt động tố tụng. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ công trực tuyến khi thực hiện các thủ tục tư pháp. Đây cũng chính là một trong các phương diện, nội dung quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội số – một trong ba trụ cột của quá trình chuyển đổi số quốc gia. Qua đó, việc ứng dụng công nghệ số trong các hoạt động tư pháp nói riêng và trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung mới thật sự thiết thực, khả thi, hiệu quả.

4. Kết luận

Trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia nói chung và chuyển đổi số trong khu vực công nói riêng, việc xây dựng và phát triển tư pháp số luôn đóng một vai trò, vị trí quan trọng. Để có thể xây dựng “nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân” theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW cần xây dựng chiến lược tổng thể thực hiện chuyển đổi số đồng bộ đối với toàn bộ hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Bên cạnh đó, việc nắm bắt kịp thời xu hướng chung của thế giới, kinh nghiệm của các quốc gia cũng góp phần gợi mở cho Việt Nam một số ý tưởng, giải pháp trong tiến trình xây dựng tư pháp số.

Chú thích:

1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Cẩm nang chuyển đổi số. H. NXB Thông tin và Truyền thong, tr. 134 – 135.

2. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Quốc hội (2021). Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến.

4. Chuyển đổi số và định hướng xây dựng Tòa án điện tử đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. https://www.toaan.gov.vn/webcenter/portal/tatc/chi-tiet-tin?dDocName=TAND176649.

5. Nhiều thành tựu nổi bật trong chuyển đổi số và xây dựng Toà án điện tử. https://congly.vn/nhieu-thanh-tuu-noi-bat-trong-chuyen-doi-so-va-xay-dung-toa-an-dien-tu-411547.html.

6. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2023). Chỉ thị số 01/2023/CT-CA ngày 03/01/2023 về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác Toà án năm 2023.

7. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2024). Chỉ thị số 02/CT-CA ngày 15/01/2024 về đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Tòa án điện tử.

8. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2023). Quyết định số 97/QĐ-VKSTC ngày 23/3/2023 thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân.

9. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2022). Quyết định số 359/QĐ-VKSTC ngày 02/12/2022 phê duyệt “Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin của ngành Kiểm sát nhân dân đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

10. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2023). Quyết định số 390/QĐ-VKSTC ngày 30/10/2023 kiện toàn Ban Chỉ đạo chuyển đổi số của ngành Kiểm sát nhân dân.

11. Một số nội dung cơ bản về chuyển đổi số trong ngành Kiểm sát nhân dân. https://kiemsat.vn/mot-so-noi-dung-co-ban-ve-chuyen-doi-so-trong-nganh-kiem-sat-nhan-dan-65558.html.

12. Ứng dụng và phát triển công nghệ 4.0 trong công tác khám nghiệm hiện trường, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. https://bocongan.gov.vn/tintuc/Pages/lists.aspx?Cat=17&ItemID=35952.

Nguồn: Xây dựng nền tư pháp số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Lê Thị Hoàng Minh, Trường Đại học Kinh tế – Đại học Đà Nẵng
www.quanlynhanuoc.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Cháy bãi phế liệu ở quận Nam Từ Liêm nhiều tiếng nổ lớn vang lên trong đêm

Cháy bãi phế liệu ở quận Nam Từ Liêm nhiều tiếng nổ lớn vang lên trong đêm
Khoảng 3h sáng 11/3, người dân tại khu vực quận Nam Từ Liêm giật mình bởi nhiều tiếng nổ lớn. Khói đen cuồn cuộn bốc lên từ khu vực gần Đại lộ Thăng Long, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm.

Để KCN cao Hòa Lạc trở thành "trái tim" công nghệ

Để KCN cao Hòa Lạc trở thành "trái tim" công nghệ
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TƯ ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về "Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia", đúng như chỉ đạo của Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Trưởng ban Chỉ đạo 57 của Thành ủy - điều quan trọng phải xác định rõ trọng tâm, trọng điểm để tạo các bước đột phá.

2 huyện của Hà Nội đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao

2 huyện của Hà Nội đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký các quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện Đông Anh và huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.

Điểm tin xây dựng - bất động sản ngày 11/3: Giá thuê căn hộ ở Hà Nội tăng mạnh

Điểm tin xây dựng - bất động sản ngày 11/3: Giá thuê căn hộ ở Hà Nội tăng mạnh
Bình Dương phát triển hàng nghìn căn nhà ở xã hội gần khu công nghiệp; TPHCM sắp đấu giá khu đất 26 ha phát triển khu đô thị TOD gần Metro số 2; Nhiều dự án cao tốc trọng điểm vướng mặt bằng, thiếu vật liệu; Hà Nội tăng cường kiểm tra, giám sát hơn 100 dự án đầu tư trong năm 2025…là những tin tức xây dựng – bất động sảnđáng chú ý.

Điểm tin ngân hàng ngày 11/3: Các ngân hàng nhận chuyển giao được ưu đãi đặc biệt

Điểm tin ngân hàng ngày 11/3: Các ngân hàng nhận chuyển giao được ưu đãi đặc biệt
Nhiều ngân hàng giảm lãi suất thấp nhưng vẫn còn nhà băng niêm yết lãi cao nhất 9%/năm; Thủ tướng khuyến khích ngân hàng nước ngoài tham gia xử lý nợ xấu; Yêu cầu trình Nghị quyết về quản lý tài sản ảo trước ngày 13/3; Yêu cầu đáp ứng nhu cầu ngoại tệ hợp pháp cho doanh nghiệp…là những tin tức tài chính và ngân hàng nổi bật