Xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” trong bối cảnh mới
Nâng cao chất lượng hoạt động công tác dân vận trong bối cảnh mới Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính trị của Đảng trong bối cảnh mới |
![]() |
Ảnh minh họa: IT |
1. Mở đầu
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò và vị thế của gia đình. Người khẳng định: “quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”(1).
Tiếp thu giá trị tư tưởng của Người, việc xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị gia đình trong bối cảnh hiện nay là trực tiếp xây dựng chuẩn mực con người Việt Nam trong thời đại mới, có vai trò định hướng, tạo dựng niềm tin, tăng cường đạo đức và trách nhiệm công dân, ổn định và phát triển xã hội. Để hiện thực hóa khát vọng của dân tộc, xây dựng những hệ giá trị của đất nước trong thời kỳ mới phải gắn liền với việc xây dựng, giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình như tinh thần Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(2). Đây là yêu cầu, khách quan, cấp thiết là sức mạnh nội sinh nhằm thực hiện đồng bộ, toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới.
2. Nội dung
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng hệ giá trị gia đình
Thứ nhất, trong giai đoạn hiện nay, sự biến đổi cấu trúc gia đình từ “tam, tứ đại đồng đường” sang “gia đình hạt nhân” đã làm cho sự gắn kết gia đình không còn chặt chẽ. Tính chia sẻ, tương trợ, nhường nhịn và tôn trọng lẫn nhau không còn như trong gia đình truyền thống. Sự xuất hiện của nhiều kiểu gia đình mới như: gia đình đồng tính, gia đình đơn thân, gia đình không con cái… phần nào phản ánh sự giản tiện, thu hẹp các mối quan hệ trong gia. Lối sống “gấp” và “vội” làm cho “xung đột” trong gia đình ngày càng nhiều hơn khi các thành viên thiếu đi sự kết nối, yêu thương, hỗ trợ và chia sẻ. Những người trẻ chạy theo lối sống vật chất, không coi trọng tình cảm gia đình, tìm kiếm những giá trị không có thật trên các nền tảng mạng xã hội, những biểu hiện “lệch chuẩn” về đạo đức, lối sống ngày càng nhiều. Đây là lý do dẫn đến sự “rạn nứt”, “hời hợt” và trở nên “xa cách hơn” trong mối quan hệ với gia đình, làng xóm.
Thứ hai, mối quan hệ “vợ - chồng” trong gia đình đã có những chuyển biến tích cực, những giá trị mới như: sự bình đẳng, sẻ chia, thương yêu giữa vợ và chồng đã thay đổi so với gia đình truyền thống. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế chưa khắc phục được như: sự sẻ chia giữa người chồng và người vợ trong công việc nội trợ và chăm sóc con cái, người vợ vẫn mang “gánh nặng kép” vừa phải chăm sóc gia đình, vừa phải tham gia vào công việc của xã hội. Bất bình đẳng vẫn diễn ra trong quyền quyết định những việc lớn, việc quan trọng của gia đình. Tình trạng bạo lực gia đình - kể cả nam và nữ, diễn biến phức tạp với nhiều hình thức khác nhau và có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Ly hôn và bạo lực gia đình ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của con cái, tới cuộc sống gia đình và gây ra sự mất ổn định về xã hội khi “một tế bào của xã hội không thật sự khỏe mạnh”.
Thứ ba, gia đình từ bao đời nay luôn có vai trò quan trọng nhất trong nuôi dưỡng và giáo dục con cái trưởng thành. Tuy nhiên, trong bối cảnh công nghiệp hóa, toàn cầu hóa và chuyển đổi số hiện nay, một bộ phận cha mẹ do mải lo toan cuộc sống không đủ thời gian để quan tâm con cái. Quá trình di cư quốc tế và di cư giữa các địa phương trong nước đã dẫn tới “sự phân ly” giữa con cái và cha mẹ. Trẻ em thiếu đi sự giáo dưỡng trực tiếp của cha mẹ, thiếu đi tình yêu thương đã dẫn tới nhiều hậu quả như: lệch chuẩn xã hội trong đạo đức, lối sống, hư hỏng, nghiện hút và các tệ nạn xã hội. Hệ lụy của quá trình di cư khiến cha mẹ già cô đơn không nơi nương tựa, không người chăm sóc, ngược lại còn phải chăm sóc trẻ nhỏ và tự chăm sóc bản thân mình. Một số người ở cùng cha mẹ có mâu thuẫn thế hệ, con cái chủ yếu chăm sóc về mặt vật chất còn đời sống tinh thần của bố mẹ không được quan tâm thỏa đáng (do không có thời gian, không thống nhất trong quan điểm sống, không sẵn sàng lắng nghe và chia sẻ…) dẫn đến người già cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình. Sự đề cao đồng tiền, sự tha hóa về lối sống trong một bộ phận giới trẻ đã làm xuất hiện tình trạng con cái bạo lực bố mẹ cả về thể chất lẫn tinh thần. Những giá trị về lòng hiếu thuận, tôn kính ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ, việc chăm sóc bố mẹ hay phân chia tài sản kế thừa giữa anh, chị em trong gia đình ngày càng phức tạp dẫn đến mâu thuẫn. Đặc biệt, nhiều sự việc đau lòng từ việc phân chia tài sản thừa kế đã xảy ra, gây mất tình thân đang là vấn đề đáng lo ngại về sự xuống cấp của mối quan hệ trong gia đình.
Thứ tư, quá trình chuyển đổi số quốc gia và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra những thời cơ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, và cũng tác động không nhỏ tới các mối quan hệ của gia đình, quan hệ xã hội, tương tác xã hội, các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội… Sự phát triển của công nghệ và sự xuất hiện của các nền tảng mạng xã hội đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới những giá trị, chuẩn mực xã hội đang tồn tại, kể cả tích cực lẫn tiêu cực, làm cho những giá trị này phải thay đổi để thích ứng cho phù hợp với bối cảnh mới. Trong gia đình, tương tác giữa cha mẹ và con cái đã có những thay đổi nhất định, quá trình nuôi dưỡng và giáo dục cũng bị ảnh hưởng không nhỏ của quá trình chuyển đổi số. Hầu hết các bậc phụ huynh đang có xu hướng thay thế những giá trị truyền thống bằng những giá trị và chuẩn mực của xã hội hiện đại. Quá trình này mang tính hai mặt, vừa thích ứng để đáp ứng với xã hội hiện đại, vừa làm mất đi những giá trị truyền thống vốn cần được lưu giữ và bảo tồn để phát triển nhưng không làm mất đi những di sản vốn có của gia đình Việt Nam.
Là một thiết chế xã hội đặc biệt, có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, hệ giá trị gia đình vừa mang tính linh hoạt nhưng vẫn phải bảo đảm tính bền vững. Quá trình biến đổi và thích ứng của hệ giá trị gia đình Việt Nam qua các giai đoạn phát triển đã chứng minh cho điều đó khi vừa giữ gìn được những giá trị chuẩn mực được hình thành từ trong lịch sử, vừa dung nạp những biến đổi mang tính tính cực, tiến bộ của xã hội. Xây dựng, vun đắp và giữ gìn hệ giá trị gia đình Việt Nam là góp phần hình thành nên những con người Việt Nam mới, đáp ứng nhu cầu phát triển con người Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
2.2. Nội dung xây dựng hệ giá trị gia đình ở Việt Nam
Quán triệt tinh thần Đại hội XIII của Đảng, tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, tạo tiền đề để triển khai sáng tạo, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và phát huy các giá trị sức mạnh con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đồng thời, đây là yêu cầu khách quan cấp thiết đã được khái quát tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, đó là: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống và giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh”(3). Hệ giá trị gia đình của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được xác định là:
Giá trị “Ấm no”
“Ấm no” là trạng thái đầy đủ về vật chất của con người(4). Là một dân tộc trải qua thời gian rất dài đấu tranh cho độc lập dân tộc, con người Việt Nam đã có những giai đoạn phải đương đầu với nạn đói. Đặc biệt, nạn đói năm 1945 diễn ra ở 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam đã làm hơn 2 triệu người chết đói. So sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam và những tổn thất của các cuộc chiến tranh Pháp - Đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu. Thế mà nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ, ta đã chết hơn hai triệu người”(5). Chính vì vậy, sau khi thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trả lời phỏng vấn của nhà báo nước ngoài ngày 21-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(6). Từ những ngày đầu mới giành được độc lập, Người đã yêu cầu Chính phủ phải quan tâm đến đời sống người dân, phải thực hiện ngay 4 điều: Làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành. Theo Người, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc ấm(7).
Thực tế cho thấy, trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình phát triển, muốn gia đình ổn định, hạnh phúc, tiến bộ thì trước hết gia đình đó phải được “ấm no”, đây là điều kiện tiên quyết, quan trọng cho gia đình có thể tồn tại và phát triển. Nghèo đói đồng nghĩa với bất hòa, lục đục trong gia đình và hạn chế tiếp cận các dịch vụ xã hội, không bảo đảm cho quá trình phát triển cả về thể lực, trí lực, kỹ lực cho các thế hệ kế cận, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường sẽ cao hơn. Nếu gia đình không ấm no, các thành viên gia đình đó sẽ phải tìm kế mưu sinh, không có thời gian dành cho gia đình, chăm sóc con cái, người cao tuổi... Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới các mối quan hệ trong gia đình và nếu kéo dài sẽ là gánh nặng cho quá trình phát triển xã hội.
Giá trị “ấm no” được đánh giá bằng sự thỏa mãn về tinh thần, vật chất và thể chất, đó là sự “thỏa mãn các nhu cầu ăn, mặc ở, học hành và giải trí cho các thành viên trong gia đình một cách tương đối đầy đủ, các thành viên có cơ hội phát triển về tài năng, trí tuệ, sức khỏe và khả năng đóng góp cho gia đình và xã hội”(8). Trong lịch sử các mức độ về giá trị ấm no được tịnh tiến từ “ăn no, mặc ấm” , “ăn ngon, mặc đẹp”, “ăn sung, mặc sướng”. Hiện nay, nhờ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo nên phần lớn gia đình Việt Nam đã đạt tới giá trị ấm no như: có nhà cửa, có thu nhập tương đối ổn định, tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, có phương tiện phù hợp, được chăm sóc sức khỏe và có “của để dành”. Các chính sách xã hội hướng tới mọi đối tượng người dân với mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển”. Theo khảo sát mức sống dân cư năm 2020 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm rất nhanh: từ 9,2% năm 2016 xuống còn 2,3% năm 2020(9). Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều gia đình Việt Nam ở những vùng dân tộc thiểu số, những vùng “lõi nghèo” hay vùng đặc biệt khó khăn của cả nước vẫn ở trong mức “nghèo” hoặc “mới thoát nghèo”. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, để giúp các gia đình có thể tự vươn lên thoát nghèo cần có những chính sách cụ thể, phù hợp với từng nhóm đối tượng để tạo động lực cho mỗi gia đình vươn lên thoát nghèo bằng chính sự nỗ lực của mình.
Nhìn chung, trong mỗi bước chuyển mình của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hướng tới giá trị ấm no của mỗi gia đình để có thể mang lại hạnh phúc cho mỗi con người. Giá trị ấm no trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi có những chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để có thể đáp ứng đầy đủ về vật chất, thoải mái về tinh thần, trong các nhóm và các tầng lớp dân cư cần có môi trường sống lành mạnh, hỗ trợ đầu tư trang thiết bị để cải thiện chất lượng cuộc sống. Có như vậy, giá trị “ấm no” cho mỗi gia đình Việt Nam ngày càng bền vững, góp phần xây dựng thành công CNXH.
Giá trị “hạnh phúc”
“Hạnh phúc” là trạng thái sung sướng vì đạt được ý nguyện; hạnh phúc có thể là sự sẻ chia, tình yêu thương, gắn bó của mọi người thân thiết và tất cả với mọi người xung quanh. Theo Từ điển Tiếng Việt, hạnh phúc là một trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí(10). Như vậy, mỗi con người có quyền chính đáng được tìm kiếm và xây dựng hạnh phúc cho chính bản thân mình. Trong Tuyên ngôn Độc lập (được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945) đã nhấn mạnh: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Hạnh phúc của gia đình là sự tổng hòa hạnh phúc các thành viên trong gia đình. Bởi gia đình ngay từ đầu đã gắn với chức năng tâm lý, tình cảm, là nơi cho mỗi con người cảm giác bình yên, tạo nên hạnh phúc của mỗi người trong xã hội. Muốn gia đình hạnh phúc, mỗi người phải giữ được tâm bình an, làm những điều tốt cho người thân xung quanh mình, sống thoải mái, không bị ràng buộc bởi những cám dỗ và ham muốn; hài lòng về mối quan hệ gia đình, xã hội. Giá trị hạnh phúc của gia đình sẽ đạt được khi trong gia đình đủ đầy người thân, sự ấm áp, yêu thương của mọi thành viên trong gia đình, trong mối quan hệ ruột thịt, hôn nhân, họ hàng….
Gia đình hạnh phúc có thể được đo bằng thu nhập ổn định, có nhà riêng, sống trong môi trường lành mạnh, con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn; với hàng xóm láng giềng hòa đồng, vui vẻ, mọi người đều đồng lòng yêu thương, chia sẻ; phát huy được những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, tiếp cận được những giá trị tiến bộ của thời đại. Hạnh phúc của mỗi người sẽ được “đong đếm bằng hạnh phúc của những người thân yêu, một hình thức làm tròn bổn phận với những người xung quanh trong gia đình để thỏa mãn nội tâm”(11). Từ những hài lòng về cuộc sống cá nhân, sự ổn định và ấm áp của gia đình đến lối sống có trách nhiệm với các thành viên trong gia đình và tin tưởng lẫn nhau giữa vợ và chồng sẽ là điều kiện tiên quyết cho một gia đình hạnh phúc.
Trong giai đoạn hiện nay, sự ảnh hưởng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghệ truyền thông, áp lực cuộc sống làm các quan niệm về giá trị hạnh phúc trong gia đình có những thay đổi. Nhưng các giá trị như: sẻ chia, tôn trọng, yêu thương, cảm thông, ổn định tài chính, đồng sức đồng lòng hay những chuẩn mực xã hội như: trên kính dưới nhường, con cháu hiếu thảo… đều là những yếu tố bảo đảm cho giá trị hạnh phúc được lan tỏa và vẫn còn nguyên giá trị. Các thành viên trong gia đình cần bảo vệ, gìn giữ và phát huy các giá trị này để giữ cho gia đình hạnh phúc và phát triển.
Giá trị “tiến bộ”
“Tiến bộ” trong gia đình thể hiện chủ yếu qua các mối quan hệ trong gia đình, giáo dục gia đình và thực hiện bình đẳng giới. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, người phụ nữ luôn có vai trò, vị trí quan trọng không thể thay thế được kể cả trong gia đình và ngoài xã hội. Người cho rằng, muốn quan tâm tới gia đình nhỏ, muốn một gia đình phát triển trước tiên phải thực hiện nam nữ bình quyền; đó là “một cuộc cách mạng khá to và khó”(12). Việt Nam trải qua một thời gian khá dài ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”, vai trò, vị trí của người phụ nữ không được đánh giá cao. Căn nguyên của vấn đề này được Hồ Chí Minh chỉ rõ, đó là “một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội”(13). Chính vì vậy, muốn nam và nữ bình đẳng trong gia đình và cả ngoài xã hội thì phải thay đổi được nhận thức, suy nghĩ của xã hội vốn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Để cuộc cách mạng bình đẳng giới thành công, Người chỉ rõ: “Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công”(14). Người lên án thói bạo hành với phụ nữ của nam giới, và yêu cầu phải bảo vệ phụ nữ và tạo điều điện để phụ nữ bảo đảm quyền lợi của mình. Người cho rằng, “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”(15). Chỉ khi nào cả trong gia đình và ngoài xã hội bình quyền thì lúc đó gia đình mới có thể tiến bộ, bình đẳng và hạnh phúc.
Bình đẳng trong gia đình, là yếu tố cốt lõi để một gia đình hạnh phúc và tiến bộ. Hiện nay, sự bình đẳng trong gia đình được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, “Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng, sử dụng thời gian chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật; Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển; Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình”(16). Điều kiện tốt nhất để có một gia đình văn hóa là phải thực hiện quyền bình đẳng trong gia đình. Trên cơ sở đó, các thế hệ sẽ được đáp ứng những nguyện vọng chính đáng, được đầu tư hợp lý và phát triển nhân cách toàn diện. Xây dựng gia đình “bình đẳng” là xây dựng một gia đình có quan hệ anh, chị em hòa thuận, thương yêu lẫn nhau. Nếu một gia đình có nhiều thế hệ chung sống, trong mối quan hệ giữa ông bà, cha mẹ, cháu chắt, dâu rể… trên cơ sở bình đẳng, mỗi gia đình sẽ có không gian, môi trường phát triển toàn diện cho tất cả các thành viên, góp phần xây dựng “sự khỏe mạnh của mỗi tế bào” trong xã hội.
Gia đình Việt Nam đang thích ứng với sự thay đổi của xã hội hiện đại, giá trị tiến bộ còn thể hiện ở việc lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của các thành viên trong gia đình để đạt tới sự thấu hiểu và tôn trọng; tổ chức cuộc sống gia đình, chăm lo đời sống tinh thần. Việc tiếp nhận các yếu tố hiện đại, khoa học để tổ chức cuộc sống gia đình, bổ sung kiến thức, tri thức, kỹ năng; tiếp cận với những nền giáo dục tiên tiến, hiện đại; giao lưu, tiếp biến dưới khía cạnh văn hóa, “gạn đục, khơi trong” để bổ sung các giá trị mới phù hợp với thời đại. Đồng thời, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với gia đình và xã hội trong việc thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước và quy định của pháp luật. Mỗi gia đình tiến bộ sẽ góp phần tạo nên xã hội tiến bộ.
Giá trị “Văn minh”
“Văn minh” là tiêu chí quan trọng của phát triển xã hội nói chung và của gia đình nói riêng. Giá trị văn minh trong gia đình thể hiện trên nhiều phương diện. Trước hết là những ứng xử, giao tiếp văn minh trong cuộc sống gia đình. Trong các gia đình hiện nay, mối quan hệ ứng xử giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng cũng đang có nhiều thay đổi, phù hợp hơn với một xã hội hiện đại. Đó là biểu hiện của sự sẻ chia, tôn trọng, thực hiện các quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình đồng thời vẫn giữ được các giá trị đạo đức, nhân văn. Chắt lọc, xóa bỏ những tập quán, thói quen lạc hậu, cổ hủ không còn phù hợp như: gia trưởng, định kiến giới, bạo lực gia đình, định kiến giữa “mẹ chồng - nàng dâu”, sự áp đặt một chiều cha mẹ và con cái.
Xây dựng gia đình văn minh, hiện đại là mục tiêu trong phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bởi một gia đình văn minh sẽ là nơi nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người, nền tảng để hình thành nên “con người văn hóa” đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững; đồng thời, phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng được gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ. Gia đình văn minh là gia đình tiếp thu được đầy đủ các yếu tố tiên tiến của thời đại (bình đẳng, dân chủ, tôn trọng lợi ích chính đáng của cá nhân, hài hòa lợi ích cá nhân và tập thể...) để duy trì, xây dựng và phát triển gia đình.
2.3. Một số giải pháp xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Định hướng mục tiêu xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam đã rõ, nhưng để đạt được các mục tiêu còn nhiều khó khăn và phức tạp. Hệ giá trị gia đình gắn với chức năng, sứ mệnh mà gia đình đảm đương, đó là nơi duy trì nòi giống; huyết thống; là môi trường giáo dục đầu tiên của mỗi người; nơi bồi đắp tình cảm, tư tưởng, trao truyền tri thức, kinh nghiệm, truyền thống văn hóa; nơi gắn kết giữa các thành viên, thế hệ. Đồng thời, nếu gia đình phát triển lành mạnh sẽ là nơi khởi nguồn những ý tưởng sáng tạo về phát triển kinh tế, lao động sản xuất, đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần ngày càng phong phú, tốt đẹp cho con người. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, sự ổn định của gia đình chính là một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng CNXH. Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam cần quan tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, đánh giá hệ giá trị gia đình Việt Nam từ truyền thống tới hiện đại. Giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam truyền thống, tiếp thu những giá trị mới của gia đình phù hợp với gia đình và văn hóa gia đình Việt Nam. Cần tiếp tục nghiên cứu về gia đình Việt Nam trong bối cảnh mới, bối cảnh chuyển đổi số, để dự báo các xu hướng biến đổi của gia đình. Nghiên cứu về gia đình hiện nay cần phải quan tâm đúng mức cả về lý luận và thực tiễn bối cảnh hiện nay. Làm rõ những tồn tại và hạn chế, những thời cơ và thách thức của gia đình bởi gia đình luôn vận động và biến đổi cùng với xã hội. Tuy nhiên, để nhận thức một cách khách quan khoa học các giá trị gia đình trong giai đoạn hiện nay, cần làm rõ những biến đổi của gia đình và làm rõ cơ sở lý luận cho việc hình thành những giá trị mới của gia đình, cần kết hợp những giá trị “di sản gia đình” tốt đẹp còn nguyên giá trị với những chuẩn mực gia đình mới phù hợp sự phát triển của xã hội để các nhà lãnh đạo, quản lý có những giải pháp, những chính sách phát triển phù hợp.
Thứ hai, trong bối cảnh hiện nay, việc chăm sóc và giáo dục gia đình càng trở nên quan trọng. Sự phát triển của khoa học công nghệ, các nền tảng mạng xã hội đã tác động đến mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt giữa cha mẹ và con cái. Vì vậy, cần có cách thức giáo dục phù hợp đối với thế hệ trẻ về đạo đức, lối sống, về hành vi ứng xử với ông bà cha mẹ để giữ được văn hóa tôn trọng, lễ phép và hiếu thuận. Trau dồi tri thức để trở thành những con người của xã hội số, đáp ứng tốt với những giá trị và chuẩn mực của xã hội hiện đại. Để làm được điều đó cần nghiên cứu và ban hành nhiều quy tắc trong ứng xử gia đình, giáo dục tri thức về hôn nhân, kỹ năng làm cha, làm mẹ trong bối cảnh số.
Thứ ba, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về gia đình như: Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Trẻ em, Luật Người cao tuổi… Thực hiện các chương trình, mục tiêu, chiến lược phát triển gia đình đến năm 2030. Quan tâm, phát triển, lồng ghép các chính sách gia đình trong thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng bộ tiêu chí về gia đình, xác định những giá trị cốt lõi, những thang đo và bộ chỉ số để đo lường được những chỉ tiêu hướng tới xây dựng gia đình “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” như Đại hội XIII của Đảng đã định hướng.
3. Kết luận
Xã hội Việt Nam đang đứng trước những biến đổi sâu sắc bởi sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bối cảnh này đã tạo ra những thay đổi nội tại của hệ giá trị xã hội nói chung và hệ giá trị gia đình Việt Nam nói riêng. Việc xây dựng hệ giá trị gia đình “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” trở nên vô cùng cần thiết để phát huy tính tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những hạn chế, không phù hợp với văn hóa gia đình và văn hóa dân tộc. Hướng tới xây dựng gia đình Việt Nam thành một nơi không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nương tựa của mỗi thành viên; là nơi lưu giữ, chuyển giao, truyền thụ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc trước những thách thức lớn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
_________________
Ngày nhận bài: 13-01-2025; Ngày bình duyệt: 20-3-2025; Ngày duyệt đăng: 8-4-2025
Email tác giả: linhltt@hcma2.edu.vn
(1), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.300, 300.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.143.
(3) Nguyễn Phú Trọng: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi, Tạp chí Lịch sử Đảng, 12-2021, tr.9.
(4), (10) Xem: Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003, tr.18, 423.
(5), (6) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.108, 187, 175.
(8) Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 2006, tr.49-50.
(9) Tổng cục Thống kê: Thành tựu giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2016-2022.
(11) Lê Ngọc Văn, Hạnh phúc của người Việt Nam; Khái niệm, cách tiệp cận và chỉ số đánh giá, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.141.
(12), (13), (14) Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Sđd, t.7, tr.342, 342, 342.
(16) Quốc hội: Luật Bình đẳng giới của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10, số 73/2006/QH11 ngày 29-11-2006.
Nguồn: Xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” trong bối cảnh mới
Có thể bạn quan tâm
Tin mới nhất
Thị trường chứng khoán ngày 23/4: Kỳ vọng hình thành đáy thứ hai sau nhịp hồi phục tích cực

Tử vi vòng quay công nghệ ngày 24/4/2025: Tuổi Hợi quý nhân nâng đỡ, tuổi Mão gặp may mắn

Hơn 240 triệu ha đất canh tác trên toàn cầu bị ô nhiễm kim loại nặng

Chiến lược đầu tư cổ phiếu cổ tức cao trong bối cảnh thị trường biến động

Thủ tướng yêu cầu giữ vững ổn định thị trường vàng
